Thursday, January 25, 2018

Dan-vao-Than-Hoc-vui-nhan


DẪN VÀO
 THẦN HỌC VUI NHÀN





1. Làm việc phải có nghỉ ngơi và giải trí

Khi làm việc cho một công ty khai thác quặng sắt tại Mỹ, kỹ sư Fréderick Winslow Taylor (1856-1915) đã thí nghiệm với các công nhân của ông như sau: Khi mới tới làm việc tại công ty, ông ghi nhận các công nhân đang dùng một loại sẻng mỗi lần xúc được 38 pound quặng, và mỗi ngày xúc được 21 tấn quặng. Ông nhận thấy sẻng đó quá lớn so với sức lực của công nhân. Vì thế ông đã cho họ dùng một loại sẻng nhỏ hơn mỗi lần xúc được 21 pound. Lạ thay, số quặng xúc được mỗi ngày tăng lên thành 30 tấn. Sau ông lại cho công nhân dùng sẻng 18 pound thì năng xuất tăng lên thành 38 tấn/ngày. Ðó là hiệu suất tối đa có thể đạt được khi thay đổi loại sẻng.

Hồi đó, công nhân làm việc mỗi tuần 7 ngày, không nghỉ ngày nào, và làm mỗi ngày 10 tiếng, nên họ không có thì giờ nghỉ ngơi và giải trí. Vì thế, ông giảm số giờ và số ngày làm việc để thỏa mãn nhu cầu đó thì năng suất của công nhân tăng lên rõ rệt. Khi ông cho công nhân được nghỉ ngơi giữa giờ làm việc, thì năng suất cũng tăng lên.

Câu chuyện trên cho ta thấy không phải cứ làm việc liên tục một cách tích cực và chăm chỉ thì công việc sẽ đạt được hiệu quả tối đa. Muốn đạt được hiệu quả ấy, cần phải phối hợp một cách hợp lý giữa làm việc và nghỉ ngơi giải trí. Và cũng không phải càng cố gắng nhiều càng tốt, mà chỉ nên cố gắng vừa sức mình thì sự cố gắng đó mới lâu dài và đem lại năng suất cao nhất.

Do đó, những người phải làm việc nhiều nên lưu tâm đến chuyện nghỉ ngơi và vui chơi giải trí để có thể làm việc lâu dài và công việc có hiệu quả hơn. Ðồng thời cũng phải lượng sức mình để gắng sức vừa phải, phù hợp với khả năng tinh thần và thể chất của mình.

Những người ưu tú trong xã hội thường phải đảm trách những công việc quan trọng hoặc phải đảm trách quá nhiều công việc và lúc nào cũng phải cấp bách làm xong cho kịp thời hạn, nên cảm thấy mình không thể dành nhiều thì giờ để nghỉ ngơi hay giải trí được. Những người này thường để cho trách nhiệm và công việc lôi cuốn đến nỗi mình bị chúng làm chủ hơn là mình làm chủ chúng. Mặc dù họ rất mệt và cần nghỉ ngơi giải trí để lấy lại sức, nhưng ý thức trách nhiệm quá cao khiến họ không nỡ bỏ dở công việc đang tiến hành tốt đẹp. Và kết quả là sau một thời gian dài ráng sức nhiều quá, họ bị «surmenage» (quá mệt vì lao lực) không thể tiếp tục làm việc được nữa. Lúc đó, công việc có cần thiết hay cấp bách tới đâu cũng phải bỏ. Nếu cứ tiếp tục làm việc nữa sẽ bị kiệt sức và suy nhược cơ thể, phải mất nhiều thời gian mới có thể phục hồi lại được. Ðó là chưa nói đến những chứng bệnh nan y tất nhiên sẽ phát sinh do thường xuyên làm việc căng thẳng như các bệnh về tim mạch, dạ dầy, ruột, bệnh cao huyết áp, bệnh trĩ, tiểu đường, hoặc tai biến mạch máu não, v.v...

Làm việc đến nỗi đi đến những tình trạng bệnh hoạn như thế quả là thiếu sáng suốt, mặc dù về mặt luân lý cũng có phần nào đáng khen! Vì khi làm việc trong tình trạng mỏi mệt, chắc chắn hiệu quả không cao, thậm chí có thể vì thiếu sáng suốt mà đi đến những quyết định sai lầm tai hại. Nếu khi cảm thấy mệt mỏi, ta cứ «can đảm» hy sinh một chút thời gian để đi đến một chỗ nào đó nghỉ ngơi và vui chơi một hay hai ngày, thì chắc chắn khi trở lại với công việc, ta sẽ hăng hái, sáng suốt và làm việc hữu hiệu hơn trước rất nhiều, kết quả công việc bảo đảm sẽ tốt đẹp hơn. Thời gian để vui chơi giải trí đó sẽ đuọc bù lại xứng đáng, chứ không uổng phí vô ích. Cũng như khi F. Taylor cho công nhân nghỉ mỗi tuần một ngày, thì năng xuất hàng tuần chẳng những không giảm đi mà còn tăng lên, chưa nói tới mối lợi của công ty là chỉ phải trả có 5 hoặc 6 ngày công thay vì 7 ngày.

Nghỉ ngơi giải trí không phải chỉ là ích lợi cho công việc, mà còn là cần thiết, thậm chí tối cần thiết để có thể tiếp tục làm việc và làm việc cho có hiệu quả. Làm việc và nghỉ ngơi giải trí phải luôn luôn đi đôi với nhau và phối hợp với nhau nhịp nhàng như hai thời trong việc đóng đinh. Khi đóng đinh, có hai tác động: giáng búa xuống và nhấc búa lên. Tác động nhấc búa lên, tuy không làm cho đinh lún xuống chút nào, nhưng cũng cần thiết không kém tác động giáng xuống. Vì nếu không nhấc búa lên thì tuyệt đối ta không thể giáng búa xuống lần thứ hai để làm cho đinh tiếp tục cắm sâu vào gỗ. Làm việc và nghỉ ngơi giải trí cũng phải phối hợp với nhau chặt chẽ như thế mới hợp tự nhiên và mang lại hiệu quả tốt đẹp.

Luật tự nhiên là như thế. Thánh Kinh có nói: «Mọi việc dưới gầm trời đều có thời của nó. Có thời sinh ra thì cũng có thời chết đi. Có thời trồng thì cũng có thời phải nhổ (nhổ vật đã trồng). Có thời giết thì cũng có thời cứu sống. Có thời phá đổ thì cũng có thời xây dựng... Có thời im lặng thì cũng có thời nói ra. Có thời yêu thì cũng có thời ghét. Có thời chiến thì cũng có thời bình» (Gv 3,1-8). Theo tinh thần đó, có thời làm việc thì phải có thời nghỉ ngơi và vui chơi. Tuân theo luật tự nhiên ấy thì mọi sự đều tốt đẹp, trái với luật đó thì không tốt: «Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong».



2. Tinh Thần Vui Nhàn (vui chơi - nhàn nhã)

Lý thuyết là như thế, ai cũng biết việc nghỉ ngơi giải trí là cần thiết. Nhưng đối với ai phải đảm nhận nhiều trách nhiệm, nhiều khi không có đủ thời giờ để làm cho xong những công việc phải làm, đôi khi rất cấp bách phải hy sinh cả thời giờ nghỉ đêm để thức khuya làm việc, thì đào đâu ra thời giờ để vui chơi giải trí? Ông Trời rất công bằng, nhưng lại công bằng một cách bất công ở chỗ: người phải làm nhiều việc hay ít, và dù nhiều hay ít việc tới đâu thì ai cũng được cung cấp đúng 24 giờ một ngày, không ai được thêm hay bị bớt đi phút nào. Vì thế, có người tha hồ nghỉ ngơi vui chơi giải trí, có người phải xếp đặt khôn khéo mới có được thời giờ đó, và cũng có người tìm được thời giờ để nghỉ ngơi giải trí thì thật là khó khăn. Như đã nói ở trên, những người này cũng phải «can đảm» dứt bỏ công việc để nghỉ ngơi giải trí mỗi khi cảm thấy mệt mỏi vì quá rán sức. Nếu không «dứt» công việc thì công việc cũng sẽ «dứt» mình, nên thà rằng mình «dứt» công việc còn hơn để nó «dứt» mình.

Tuy nhiên cũng có cách để những người này có thể vui chơi giải trí mà không cần phải dành ra thời giờ rõ rệt để làm chuyện đó. Họ nên áp dụng tinh thần vui nhàn của Nguyễn Công Trứ: «Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn?» (Biết nhàn thì đã là nhàn rồi, còn cứ chờ lúc được nhàn thì biết đến bao giờ mới nhàn?) Biết nhàn ở đây nghĩa là biết cách nhàn, có tinh thần nhàn. Được như vậy thì dù có bận bịu công việc vẫn giữ được tâm hồn ung dung thư thái, chứ không bị đảo điên tất bật vì công việc. Cũng như tự do và hạnh phúc, có thứ lệ thuộc vào những điều kiện bên ngoài, có thứ tự tại, không lệ thuộc vào điều kiện nào cả. Nhiều người nói: Phải được thế này được thế kia thì tôi mới tự do, mới hạnh phúc được! Tự do mà phải tùy thuộc vào điều kiện này điều kiện kia thì đâu có phải là tự do đúng nghĩa?!

Tự do đích thực là tự do bất chấp điều kiện bên ngoài: cho dù ở tù vẫn cảm thấy tự do. Hạnh phúc cũng vậy, có nhiều người nghĩ rằng phải có tiền mới hạnh phúc được. Thứ hạnh phúc đó quả là mỏng manh và tạm bợ, vì khi nào không còn tiền thì cũng không còn hạnh phúc. Nhưng vẫn có những người luôn luôn hạnh phúc vì lúc nào cũng thấy «tên mình đã được ghi trên trời» (Lc 10,20). Hạnh phúc như thế thì trong hoàn cảnh nào cũng vẫn hạnh phúc. Ðó là thứ hạnh phúc không điều kiện. Tự do và hạnh phúc không điều kiện như thế là những thái độ nội tâm, biết tự bằng lòng với chính mình, không để nội tâm của mình lệ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài.

Tương tự như vậy, nhàn nhã cũng có hai thứ: thứ có điều kiện và thứ không lệ thuộc điều kiện. Nhiều người chỉ cho mình là nhàn khi không phải làm việc nhiều, không phải bận tâm nhiều việc, khi có nhiều thì giờ rảnh rang. Nhưng vẫn có những người tuy bận rất nhiều việc, gánh trên vai nhiều trách nhiệm, làm việc không ngừng ngày này qua ngày khác, vẫn luôn cảm thấy tâm hồn an nhiên thư thái, thái độ lúc nào cũng ung dung tự tại, nét mặt luôn luôn vui tươi, không khác gì một người lúc nào cũng nhàn nhã. Họ không cần phải dành thì giờ để vui chơi giải trí, vì họ đã vui chơi giải trí trong chính công việc của họ. Ít khi họ cảm thấy mệt nhọc vì công việc, vì đối với họ, họ đâu có làm việc. Công việc chính là trò chơi, là trò giải trí của họ. Cần gì phải giải trí bằng cách khác. Ðối với họ, trách nhiệm cũng chỉ là trò chơi giải trí, là một thách đố gây cho họ nhiều cảm hứng thích thú. Chu toàn trách nhiệm đã lãnh nhận, hay thành công trong công việc có nghĩa là họ đã thắng trong cuộc chơi. Thất bại hay không làm tròn trách nhiệm, dù đã cố gắng tối đa, thì cũng chỉ là thua cuộc, có gì là nghiêm trọng mà phải buồn phiền hay đặt thành vấn đề? Họ thấy trên đời chẳng có gì là nghiêm trọng khiến họ phải mất bình an trong tâm hồn. Tất cả đều chỉ là trò chơi, và cả cuộc đời là một trò chơi lớn. Nếu họ có phải dồn hết năng lực vào việc gì thì không phải vì họ coi việc đó là nghiêm trọng, mà vì họ cảm thấy «trò chơi» đó đáng cho họ dồn hết năng lực để thắng cuộc.

Tất cả đều chỉ là trò chơi, đều nhắm mục đích đem lại vui thú, hạnh phúc và thoải mái cho con người. Và người đầu tiên sáng tác ra mọi thứ vui chơi ấy chính là Thiên Chúa. Vì tình thương đối với mọi tạo vật, nhất là với các thiên thần và loài người, Ngài đã mời gọi tất cả tham dự vào cuộc chơi vĩ đại ấy, để chính Ngài và tất cả mọi tạo vật đều được một phen vui chơi thỏa thích, làm cho cuộc hiện sinh của mình có ý nghĩa. Còn mục đích nào đúng đắn cho sự hiện hữu của chính Ngài và cho tất cả mọi chúng sinh cho bằng để tất cả đều được hạnh phúc, đều được vui đùa với nhau trong tình yêu thương lẫn nhau? Và cũng không có gì làm cho mọi người được vui tươi, hạnh phúc và thoải mái bằng nô giỡn với nhau!

Ðối với người coi tất cả mọi sự đều chỉ là trò chơi, thì có điều gì được coi là quan trọng ngoài tương quan thân thiện giữa những người cùng chơi với nhau, trong đó có Thiên Chúa và tất cả mọi loài chúng sinh? Thắng bại trong trò chơi cũng là chuyện khá quan trọng mà ai cũng tự nhiên lưu tâm tới, nhưng đâu quan trọng bằng cái tình thương giữa những người cùng chơi?! Luật chơi − tức những luật tự nhiên cũng như những luật thiết định mà Thiên Chúa, người sáng tác ra trò chơi, lập ra để chơi − cũng là chuyện quan trọng thứ yếu. Chính vì muốn trò chơi được đúng đắn và đem lại sự vui tươi tối đa mà mọi người cần tôn trọng luật. Ðương nhiên ai lỗi luật chơi thì cũng cần phải chịu một hình phạt nào đó xứng hợp, giống như trong mọi trò chơi do loài người lập ra.

Quan niệm rằng mọi việc trong cuộc đời, ngay cả cuộc đời, thậm chí cả những chương trình vĩ đại của Thiên Chúa đều chỉ là những trò tiêu khiển, quan niệm đó giúp ta có một thái độ bình tâm, ung dung, nhàn nhã và vui tươi trước cuộc sống. Nó cũng giúp ta có một tinh thần siêu thoát, tâm hồn không bị vướng vào những thực tại trần tục. Vì thế cuộc đời lúc nào cũng thơ thới hân hoan, không có gì đáng phải buồn phiền, luôn luôn thấy mình sướng như tiên, dù hoàn cảnh bên ngoài có khó khăn. Ðã là trò chơi ắt phải có tính thách đố, nghĩa là phải có khó khăn để vượt qua. Nếu không có khó khăn để thách đố, thì đó là thứ trò chơi «lãng nhách» nếu không muốn nói đó không còn là trò chơi nữa. Trò chơi nào cũng phải có cái khó của nó. Chính cái khó đó mới làm cho trò chơi trở nên hấp dẫn. Người ham chơi đích thật càng ngày càng muốn dấn thân vào những trò chơi khó hơn. Và niềm vui của trò chơi chính là thắng vượt được khó khăn. Khó khăn càng lớn thì người thắng cuộc càng vinh quang. Do đó, càng khó khăn thì càng nên hứng chí, lẽ nào buồn phiền chán nản?

Quan niệm mọi sự chỉ là trò chơi và thực sự sống theo quan niệm ấy, đó là một thứ linh đạo cao cấp và hết sức đúng đắn và cũng rất chí lý. Ðương nhiên không thể tránh khỏi có những người quá nghiêm trang đến độ không thể coi quan niệm này là đúng đắn được. Họ thích nghiêm trang đạo mạo và hay quan trọng hóa mọi chuyện. Vì thế, trí óc họ bị căng thẳng khiến họ dễ bực bội quạu quọ với người khác, đồng thời làm mồi cho những căn bệnh nan y có nguyên nhân tâm lý. Ðể đề phòng đồng thời chữa trị những chứng bệnh ấy, khoa tâm lý thời nay đề nghị phương thức «hài hước trị liệu» (Humour therapy). Nhưng hài hước và pha trò đối với họ quả là khó vì họ không thích và không quen làm mất đi vẻ nghiêm trang, đạo mạo, «đúng đắn» của họ. Họ có vẻ đạo đức và thánh thiện, nhưng thánh thiện cách nghiêm trang hơn là vui vẻ. Các nhà tu đức học nói về họ: «Un saint triste est un triste saint» (Thánh mà buồn là thánh đáng buồn), và «Sanctus videtur sed non est» (Có vẻ là thánh chứ chẳng phải thánh), đang khi những vị thánh thật sự thì lại «Sanctus non videtur sed est» (Không có vẻ thánh mà hóa ra là thánh).

«Linh đạo vui chơi nhàn nhã» này được các nhà «thần học vui nhàn» (thần học về nhàn nhã vui chơi) ủng hộ và đặt nền tảng cho nó.



3. Thần Học Vui Nhàn
     (Théologie des Loisirs)

Ngày nay, tuy máy móc và tiện nghi kỹ thuật đã giảm cho con người biết bao nhiêu công việc, nhưng con người chẳng nhàn hạ rãnh rỗi hơn xưa, trái lại còn bận bịu tất bật hơn rất nhiều. Vì văn minh tiến bộ, một mặt giảm bớt cho con người biết bao nhiêu việc cũ, mặt khác lại gia tăng gấp bội những công việc mới. Vì thế, trong lịch sử con người, chưa bao giờ con người lại bận bịu công việc như ngày nay. Nước nào càng văn minh, càng kỹ nghệ hóa cao, thì dân nước đó càng phải chạy đua với công việc, tất bật với công việc tới độ căng thẳng. Vì thế, con người càng ngày càng ý thức được sự cần thiết của thời giờ rảnh rỗi, của vui đùa giải trí, của thư giãn...

Trong chiều hướng tái khám phá nhu cầu và giá trị nhân bản của việc vui chơi giải trí của con người, về mặt tôn giáo, người ta cũng tái khám phá chiều kích tâm linh của vui chơi, giải trí, và sự cần thiết của nó đối với tâm linh. Từ đó, trong Giáo Hội, phát sinh ra «Thần Học về nhàn nhã vui chơi», tìm hiểu chiều kích vui chơi của con người, của Giáo Hội, của Thiên Chúa.

Một trong những thần học gia đầu tiên của thần học này là Hugo Rahner (Anh của thần học gia Karl Rahner). Ông đã tái khám phá trong linh đạo của Thánh Tôma Aquinô chiều kích căn bản của lập trường Kitô giáo về hoạt động vui chơi của con người. Theo ông, sự vui chơi chính là một nguyên lý để giải thích và chú giải mặc khải Kitô giáo. Ông đi từ Homo ludens (con người vui chơi) đến Deus ludens (Thiên Chúa cũng vui chơi) và Ecclesia ludens (Giáo Hội cũng vui chơi). Ông cho rằng việc sáng tạo cũng như cứu chuộc là một trò chơi của sự khôn ngoan Thiên Chúa.

Ông lập luận như sau: Thiên Chúa dựng nên vũ trụ cũng như cứu chuộc để làm gì? Tại sao Ngài phải làm như vậy? Chúng ta làm hết việc này đến việc kia là do chúng ta muốn thỏa mãn một nhu cầu hay một thiếu thốn nào đó. Mà đã có nhu cầu, đã thiếu thốn thì có nghĩa là bất toàn. Thiên Chúa là Ðấng hoàn toàn, Ngài không thiếu thốn gì cả. Vì thế, không thể nói Ngài sáng tạo hay cứu chuộc vì một lý do nào khác ngoài tình yêu tự do vượt khỏi mọi tất yếu. Tình yêu đó khác với tình yêu của con người. Con người yêu thương vì có nhu cầu yêu và được yêu, hay vì sự hấp dẫn lôi cuốn (nét đẹp, sự thiện hảo) của đối tượng yêu. Còn Ngài yêu thương không vì một lý do nào cả, không vì nhu cầu yêu thương hay vì vẻ hấp dẫn của đối tượng yêu, cũng không phải vì nhu cầu giải trí do trí tuệ bị mệt mỏi. Ngài yêu vì Ngài muốn yêu, Ngài hoạt động vì Ngài muốn hoạt động. Do đó, tình yêu cũng như hoạt động của Ngài mang tính cách vui chơi, hoàn toàn tự do.

Theo các sách khôn ngoan trong Kinh Thánh, theo truyền thống các giáo phụ và các nhà thần bí, việc tạo dựng vũ trụ là một trò chơi, trong đó, Ngôi Lời (Logos) dấn thân vào trong thế giới để làm cho Thiên Chúa Cha vui thú. Vì thế, cuộc sáng tạo là một vũ khúc vũ trụ (danse cosmique), và vũ trụ là một trò chơi đang tiếp diễn của Ngài, một trò chơi vĩ đại, trong đó Thiên Chúa đang vui đùa.

Thánh Kinh không ngần ngại dùng từ «vui đùa», «vui chơi» để mô tả hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa. Sách Châm Ngôn mô tả: Sự Khôn Ngoan vốn ở luôn bên cạnh Ðấng Sáng Tạo «hằng ngày làm cho Ngài được vui thú và luôn luôn vui đùa trước nhan Ngài, và nơi trần gian cũng vui chơi và thích thú giữa con cái loài người» (Cn 8,30-31). Trong tinh thần đó, sự cứu chuộc, là cuộc sáng tạo mới, nói theo thuật ngữ của Thánh Kinh, cũng là một trò chơi của sự Khôn Ngoan Thiên Chúa. Trong đó Ðức Kitô, «bài thơ» của Chúa Cha, chính là sự vui chơi tuyệt hảo của Ngài.

Thế giới của chúng ta cũng là một hý trường, trong đó Thiên Chúa đang nô đùa với chúng ta, chúng ta cũng đang nô đùa với Ngài. Hình ảnh một người cha nô đùa với con cái, cảm thấy thích thú khi làm cho chúng cười, là hình ảnh rất đẹp để diễn tả tình yêu vui nhộn giữa Thiên Chúa và con người. Và chỉ trong trò chơi vui nhộn ấy giữa cha con, sự thân tình mới được bộc lộ cao điểm. Thật vậy, người ta dễ gần gũi với nhau nhất khi vui chơi nô đùa với nhau. Khi cùng làm việc, người ta phải tôn trọng tôn ti trật tự trên dưới, nên có sự xa cách nhau do địa vị chức tước quyền hành. Nhưng khi vui đùa với nhau, tất cả mọi khoảng cách đều ngắn lại, sự thân thiện phát sinh khiến mọi người cảm thấy gần gũi nhau. Vì thế, nhìn Thiên Chúa như một người Cha đang nô đùa với chúng ta, ta sẽ cảm thấy Ngài gần gũi thân mật với chúng ta hơn bao giờ hết. Nếu Ngài đang nô đùa với chúng ta thì thái độ thích hợp nhất của chúng ta là cùng nô đùa với Ngài, làm cho Ngài thích thú. Thái độ nghiêm trang quá đáng đối với Thiên Chúa cũng như đối với mọi người không phải là thái độ thích hợp. Ðức Kitô đã không có thái độ như thế.

Thần học gia Harvey Cox, trong một tiểu luận thần học (La fête des fous, Paris 1971, p.173), đã mô tả Ðức Giêsu như một người hài hước vui tính, một Ðức Giêsu vui tươi, linh động, hấp dẫn, để đến gần. Ông viết: «Như một người trào phúng, Ðức Kitô coi thường hủ tục, lề thói cũ, coi thường những người vẫn được người đời ca tụng nể vì. Như một thi sĩ lang thang, Ngài không có nơi gối đầu. Như một tay châm biếm chọc cười, Ngài chế giễu những quyền bính được người đời lập ra, bọn này lúc nào cũng sống xa hoa lộng lẫy bên cạnh đám dân nghèo thiếu thốn cùng khổ. Như một nhà thơ hát rong, Ngài tham dự các lễ hội và các buổi tiệc. Cuối cùng, những kẻ thù của Ngài đã dùng chính danh hiệu Vua, tạo thành một bức hoạt kê châm biếm chua chát (để trả thù những châm biếm của Ngài) và đóng đinh Ngài giữa những tiếng cười nhạo báng với bảng hiệu trên đầu Ngài (để trả thù những chế diễu của Ngài)...» Khi gán cho Ðức Kitô những nét đặc trưng của một người vui nhộn trào phúng, Harvey Cox muốn diễn tả một cái gì rất sâu xa và chính yếu.

Thật vậy, Ðức Kitô là một sự hòa hợp toàn hảo giữa một tâm hồn hết sức nghiêm chỉnh, trong sáng, đúng đắn, với một phong thái hết sức ung dung, tự tại, tự do phóng khoáng, với cách ứng xử luôn vui tươi, thoải mái, hài hước, đùa giỡn, để hòa hợp với mọi người, để gần gũi được mọi người. Phong độ của Ngài khác hẳn với bọn Kinh Sư Do Thái. Bọn này bên ngoài thì nghiêm trang đúng đắn, trịnh trọng lễ nghi khiến người khác phải kính trọng khép nép, nhưng bên trong thì đầy quanh quéo, ẩn khúc, độc ác, kiêu căng, tư tưởng của họ chẳng đúng đắn chút nào. Ðức Kitô thích vui chơi thoải mái, thích tham dự những buổi tiệc, lễ lạc, hòa mình vào nếp sống người bình dân. Ngài không kiêng kị giao du với những người bị xã hội coi là tội lỗi, như bọn gái điếm, những người thu thuế, người Samari... Ngài rất ghét và thường châm biếm vẻ «ta đây», kiêu căng, khoe mẽ, tính câu nệ lề luật mà thiếu tình thương của giai cấp lãnh đạo tôn giáo. Ngài thích vui vẻ đùa giỡn, chơi chữ, thoải mái, đặt nặng tình người, lòng yêu thương bên trong và coi nhẹ những biểu lộ giả tạo bên ngoài của luật lệ, truyền thống, phong tục... Theo Harvey Cox, chỉ khi nào chúng ta có những cách hành xử chơi đùa (comportements ludiques) về khía cạnh tôn giáo, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa những hành động của Ngài.

Các nhà thần học về nhàn nhã vui chơi cũng áp dụng tinh thần vui chơi đó vào Giáo Hội (Ecclesia ludens). Nhờ cái chết và sự phục sinh của Ðức Kitô, các Kitô hữu được giải phóng khỏi ách tội lỗi, ách của ma quỉ, của thần chết, của lề luật, của các u buồn. Nhờ vậy, Người Kitô hữu luôn sống trong niềm vui, tự do thoải mái, không bị ràng buộc vào những ách đau buồn đó. Ðược giải phóng khỏi những ách đó, tương quan giữa Giáo Hội và Ðức Kitô là tương quan vợ chồng, với tất cả những quan hệ yêu đương, những vui thú của tình yêu. Sách Nhã Ca đã tả chân mối tương quan đầy vui chơi và lạc thú đó. Thoát khỏi ách tội lỗi, ma quỉ, lề luật; tương quan giữa con người với Thiên Chúa là tương quan Con với Cha. Hình ảnh hai cha con vui vẻ đùa giỡn với nhau trong yêu thương chính là hình ảnh lý tưởng chân thực, diễn tả tương quan đúng đắn nhất giữa con người với Thiên Chúa...

Quan niệm như thế, Giáo Hội không phải là một cộng đoàn chỉ biết nghiêm chỉnh làm việc, mà là một Ecclesia ludens (Giáo Hội vui chơi) đầy sức sống, đầy vui tươi hoan lạc. Giáo Hội là bí tích của Nước Trời, mà Nước trời đã được Thánh Kinh mô tả như một yến tiệc linh đình, một hình thức vui chơi thoải mái. Chỉ trong tinh thần vui chơi nhàn nhã này, sứ điệp mà Giáo Hội rao giảng mới đích thực là Tin Mừng, tức cái tin làm cho mọi người nghe đều vui tươi phấn khởi. Chắc chắn vào thời cánh chung, Ecclesia celesta (Giáo Hội trên trời) phải là Ecclesia ludens (Giáo Hội vui chơi), một Giáo Hội đầy vui tươi hoan lạc. Viễn ảnh đó vừa là hy vọng, vừa là điều Giáo Hội trần gian phải cố gắng đạt tới ngay ở đời này. Giáo Hội trần gian phải phần nào là một Ecclesia ludens đầy nét tươi vui hấp dẫn để các con cái mình phần nào hưởng nếm trước niềm vui của cái cứu cánh mà cả Giáo Hội đang đi tới.

Con người được Thiên Chúa dựng nên để hưởng hạnh phúc chứ không để chịu đau khổ, để vui chơi hưởng nhàn chứ không để bận rộn làm việc. Nếu có làm việc thì chỉ là để vui chơi: làm việc cũng là một thứ trò chơi. Nhưng từ khi tội lỗi xen vào đời sống con người, đau khổ cũng xen vào như một hậu quả tất yếu, và sự làm việc trở thành khó khăn như một hình phạt, và con người bị bó buộc phải làm việc để sống. Việc làm đã mất đi sự vui thú của nó. Thiên Chúa cũng làm việc, các thiên thần cũng làm việc, nhưng cảm thấy vui thú trong công việc. Làm việc để vui thú, việc làm trở thành một trò vui hơn là một nhu cầu bắt buộc. Nhất là khi động lực để làm việc là tình yêu, làm việc để làm cho người mình yêu hạnh phúc. Một cô gái thêu một chiếc khăn tay, đan một chiếc áo len để tặng cho chàng trai mình yêu tha thiết, thì công việc đó là một niềm vui, cô cảm thấy hạnh phúc khi làm việc đó. Nhưng nếu cô bị ép buộc phải làm việc đó cho một người cô ghét cay ghét đắng, thì cũng là công việc y như vậy mà cô lại cảm thấy nặng nhọc như một hình phạt. Vấn đề chỉ là hay không có tình yêu mà thôi. Tội lỗi hay tình trạng thiếu tình yêu chính là nguyên nhân khiến cho con người thấy công việc thành nặng nhọc, không còn là một trò vui thú nữa.

Do đó, củng cố tình yêu nơi bản thân, coi công việc là một cách để làm cho người mình thương yêu, Thiên Chúa, tha nhân, được vinh quang, hạnh phúc, ta sẽ thấy việc làm trở thành một niềm vui, một trò vui chơi. Như vậy, công việc là một điều vui thú hay là một gánh nặng, chủ yếu là do thái độ nội tâm của ta hơn là do chính công việc. Vậy, giải phóng mình khỏi sự nặng nhọc buồn chán của công việc, khỏi ách nô lệ công việc, không gì bằng giải phóng nhãn quan của mình về công việc, nghĩa là phải thay đổi cách nhìn cũng như quan niệm của mình về công việc. Ðừng nhìn nó một cách quá nghiêm chỉnh, coi công việc là công việc với tất cả tính nghiêm trọng của nó. Cách nhìn đó làm ta mất hết hứng thú thậm chí làm đầu óc ta căng thẳng và làm khả năng ta tê liệt.

Hãy coi công việc mình làm như một trò tiêu khiển, và cũng như một đứa trẻ, hễ chơi trò này mệt thì đổi sang trò chơi khác. Một linh mục khi «chơi trò» nghiên cứu kinh thánh hay soạn bài giảng thấy mệt thì chuyển sang «trò» đi thăm giáo dân hay ra nhà nguyện «vui đùa» với Cha mình. Một tu sĩ cảm thấy chán và mệt với «trò» học hành, hãy chuyển sang «trò» viết thư thăm gia đình hoặc bạn bè. Nói chung, lấy trò này để giải trí cho trò kia, dùng việc nhẹ để tiêu khiển sau khi làm một việc nặng. Một giáo dân cảm thấy mệt vì «trò chơi» kiếm tiền nuôi gia đình, thì hãy chuyển sang «trò» phục vụ đồng nghiệp mình, hoặc «trò» về nhà đùa giỡn với con cái, cùng đi picnic với gia đình ở một công viên nào đó…

Nếu tội lỗi khi đi vào thế gian đã biến sự làm việc thành một gánh nặng, một sự buồn chán, thì khuynh hướng đi ngược lại, tức biến công việc thành niềm vui, thành trò chơi, ắt là một khuynh hướng thánh thiện, tốt đẹp. Ðó cũng là một cách thánh hóa công việc, là vui đùa với Thiên Chúa bằng công việc mà mình vốn coi nó là trò chơi.

Tính cách vui chơi và nghỉ ngơi được đặt rất nặng trong Kitô giáo nguyên thủy, thậm chí trong phụng vụ. Thật vậy, không có tôn giáo nào trên thế giới có nhiều ngày mừng lễ như trong Giáo Hội Công Giáo. Ngoài những ngày lễ lớn như Giáng Sinh, Phục Sinh... ngày nào trong tháng hay trong tuần, Giáo Hội cũng mừng lễ để kỷ niệm một biến cố nào đó trong lịch sử cứu độ hay lịch sử Giáo Hội, hoặc để mừng kính một vị thánh nào đó.

Thời xưa, lễ thường đi liền với hội, nên người ta thường gọi là lễ hội. Lễ: có tính cách thờ phượng, phụng vụ; Hội: có tính cách vui chơi giải trí, để cụ thể hóa tinh thần mừng lễ. Hội là hội hè, đình đám, vui chơi. Vì thế, trong ngôn ngữ phụng vụ của Giáo Hội, các ngày trong tuần đều được gọi là FERIA (nguyên thủy có nghĩa là ngày nghỉ lễ): Feria prima hay Dies Dominica (ngày thứ nhất hay Chúa Nhật), Feria secunda (thứ hai), Feria tertia (thứ ba)...[*] Chỉ có ngày thứ bảy là vẫn giữ danh từ Cựu Ước tức Sabbat (cũng là ngày nghỉ lễ). Ðiều đó cho thấy quan niệm của Giáo Hội xưa coi ngày nào trong năm phụng vụ cũng là ngày lễ nghỉ cả, đều là ngày để ăn mừng một điều gì đó. Do đó, bầu khí vui chơi ăn mừng có quanh năm suốt tháng.
[*] Tên của các ngày trong tuần trong Giáo Hội Công giáo: 
Dies Dominica (hay Feria prima) = Chúa nhật
Feria secunda = Thứ hai
Feria tertia = Thứ ba
Feria quarta = Thứ tư
Feria quinta = Thứ năm
Feria sexta = Thứ sáu
Sabbat = Thứ bảy
Ðiều đó thật hợp với ý nghĩa của hai chữ Tin Mừng (Tin làm vui mừng). Vì Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội rao giảng Tin Mừng, nên Tin Mừng đó phải làm cho mọi người trong Giáo Hội vui mừng trước đã. Thật vậy, rao giảng Tin Mừng với tâm trạng chẳng vui mừng gì cả, làm sao ta có thể làm người nghe cảm nhận thực sự đó là Tin Mừng? Do đó, Giáo Hội Công Giáo phải là một Giáo Hội lúc nào cũng vui mừng, cũng mừng lễ, cũng vui nhộn, ca hát... để biểu lộ đức tin đáng vui mừng của mình: Vui mừng vì được cứu độ. Còn gì đáng vui bằng điều đó? Chúa Giêsu đã chẳng bảo các môn đệ: «Anh em chớ vui mừng vì quỉ thần phải khuất phục anh em, mà hãy vui mừng vì tên của anh em đã được ghi trên Trời» (Lc 10,20) sao?

Ngày nay, do việc kỹ nghệ hóa, đô thị hóa, đời sống của các Kitô hữu cũng như mọi người khác trở nên bận rộn, tính chất hội hè vui chơi mang tính cộng đồng của ngày lễ càng ngày càng suy giảm. Vì thế, Giáo Hội hiện nay có vẻ như chỉ có lễ mà không có hội, phụng tự chỉ còn tính cách trang nghiêm mà mất đi tính cách vui đùa giải trí! Âu cũng là một điều mất hứng thú!

Người Cha trong gia đình thường nghe những tiếng cười ròn rã của đàn con nô đùa và cảm thấy điều đó đem lại niềm vui cho ông không kém gì khi thấy chúng nghiêm chỉnh làm việc. Nhưng chắc hẳn ông không cảm thấy hài lòng nếu chúng cứ nô đùa hoài mà không quan tâm tới làm việc, hoặc nếu chúng chỉ biết nghiêm trang làm việc mà không biết vui đùa với nhau và với ông. Cha trên Trời chắc hẳn không khác! Mất đi tính vui chơi, việc phụng tự đã mất đi nhiều ý nghĩa quan trọng và nét tươi vui phải có của nó!


4. KẾT LUẬN

Vui chơi, giải trí, nhàn nhã là điều kiện cần thiết để có thể làm việc được lâu dài và hiệu quả, điều đó ai cũng phải công nhận. Và để có điều kiện vui chơi giải trí và nhàn nhã một cách thoải mái, thì người ta phải làm việc. Thật vậy, muốn đi Vũng Tàu nghỉ mát và tắm biển, hay muốn tổ chức đi picnic với nhau ở một nơi nào đó, phải có phương tiện, tiền bạc. Ðiều đó giả thiết phải làm việc trước mới có. Như vậy, làm việc và vui chơi, làm việc và nghỉ ngơi là điều kiện lẫn cho nhau.

Nhưng có hai thái độ: một số người coi vui chơi và nghỉ ngơi là để phục vụ cho làm việc, coi làm việc là mục đích, vui chơi hay nghỉ ngơi là phương tiện; một số người khác coi làm việc là để sau này có thể vui chơi và nghỉ ngơi, nghĩa là coi vui chơi, nghỉ ngơi là mục đích, còn làm việc là phương tiện. Lập trường nào cũng có lý của nó.

Theo quan điểm của Thần học vui nhàn, chắc chắn cứu cánh của con người không phải là làm việc, mà là vui chơi, nghỉ ngơi, nhàn nhã. Thời xưa, trong nhiều sách giáo lý, câu hỏi đầu tiên là: «Phải làm gì cho được thanh nhàn vui vẻ vô cùng? và câu trả lời là: Phải giữ đạo thánh Ðức Chúa Trời». Như vậy rõ ràng theo các sách giáo lý đó, việc vui chơi, nhàn nhã là cứu cánh của chính việc giữ đạo Ðức Chúa Trời, huống gì làm việc. Và để dịch SALUS (Salut), có nguyên nghĩa là cứu, hay ơn cứu độ, tổ tiên ta đã dùng một từ dễ hiểu hơn, là phần rỗi, hay việc rỗi linh hồn. Từ rỗi ở đây chỉ có thể có nghĩa là rảnh rang, thong thả, nhàn nhã (trong tự điển, dường như không còn nghĩa nào khác). Phần rỗi đó chính là cứu cánh của việc giữ đạo Thiên Chúa. Tinh thần của sách giáo lý cũ và cách dịch chữ SALUS của tổ tiên ta chứng tỏ tổ tiên ta đã có trước những ý niệm mà sau này các nhà thần học vui nhàn chủ trương, tức coi sự vui chơi nhàn nhã là cứu cánh tối hậu của hiện hữu, cứu cánh ấy không thể là gì khác hơn là sự nhàn nhã vui chơi, và cứu cánh tối hậu ấy cũng chính là Thiên Chúa. Sự nhàn nhã, vui chơi, thoải mái, hạnh phúc, tự do đều nằm trong bản tính của Thiên Chúa.

Nếu cứu cánh cuối cùng của con người là nhàn nhã vui chơi, và nếu để được nhàn nhã vui chơi phải làm việc, thì đương nhiên giai đoạn hiện tại, tức trong cuộc sống đời này, chúng ta phải làm việc, phải giữ đạo thánh Ðức Chúa Trời cho nghiêm chỉnh như một phương tiện cần thiết để đạt được cứu cánh tối hậu kia. Và vì cứu cánh tối hậu của công việc, của việc giữ đạo là vui chơi nhàn nhã, nên chúng ta cần phải làm việc và giữ đạo trong tinh thần nhàn nhã vui chơi đó, để công việc, sự giữ đạo của chúng ta trở nên nhẹ nhàng thoải mái vui tươi hơn. Nghĩa là chúng ta có thể coi cuộc sống đời này, với các bổn phận, trách nhiệm, công việc phải làm, như một trò chơi lớn mà người thắng cuộc sẽ được vinh thưởng sau khi trò chơi kết thúc.

Nguyễn Chính Kết


________________________________________________


Phụ lục


Ðể Vui Chơi

Marie Noel, Notes intimes, Ed. Stock.
(Trích trong tự điển THÉO, mục Jeux)

Tôi không muốn nên trọn lành theo kiểu trọn lành của con người. Tôi không muốn tạo ra trong tôi một thứ lương tâm hành xử như một cảnh sát đứng ở mọi ngã đường để rình bắt những tên tội phạm đi ngang qua. Tôi không muốn mệt mỏi một cách thảm sầu vì ngày đêm cứ phải đo đạc, tính toán, cưa, đẽo, bào đục, để biến khúc cây sần sùi, lắm mắt thành một cỗ quan tài chôn xác chết.

Tôi muốn nên toàn thiện theo kiểu toàn thiện của Cha trên Trời. Ngài có luật lệ mà cũng có vui chơi thoải mái. Tác phẩm của Ngài đâu phải chỉ là các thiên thần sáng láng mà còn là những con bướm; không chỉ là trời, sao, cùng muôn vì tinh tú lúc nào cũng sẵn sàng vâng phục, mà còn là lửa, là gió, là những đám mây bất định thất thường.

Ngài vui đùa với những bông hoa, những đuôi con sóc, lông con công, chân con cò, vòi con voi, bướu lạc đà; Ngài sáng tạo ra là để vui chơi, nếu không phải để vui chơi thì để làm gì? Và nếu Ngài tìm thấy vui thú, có thể như vậy, nơi một tu sĩ thánh thiện đang ngày đêm hy sinh, cố gắng tuân giữ kỷ luật, thì chắc chắn Ngài cũng sẽ chúc lành bằng một nụ cười cho con dê đang nhảy múa, cho con gà đang ấp, cho con dê đực râu dài đang chồm lên con dê cái bạn nó.

Tôi muốn tâm hồn mình, cũng như tất cả các công trình của tôi, vừa có trật tự mà cũng vừa mang tính lãng mạn ngông cuồng (fantaisie).

Nguyễn Chính Kết dịch

Tuesday, January 23, 2018

Thien-Chua-cung-dau-kho


THIÊN CHÚA CŨNG ĐAU KHỔ



Trần gian đầy đau khổ

Sống trên đời, ai cũng đau khổ. Thế gian tràn ngập đau khổ. Con người vừa đau khổ thể xác, vừa đau khổ trong tâm hồn. Ai cũng có trăm ngàn lý do để đau khổ. Phật đưa ra 8 lý do tổng quát làm con người khổ: «Sinh thì khổ, già thì khổ, bệnh thì khổ, chết thì khổ, không được sống với người mình yêu thích thì khổ, phải sống với người mình ghét thì khổ, muốn mà không được thì khổ, không muốn mà cứ phải chịu thì khổ». Phật mô tả đau khổ tràn ngập trần gian như sau: «Nước mắt chúng sinh trong 3000 thế giới đem tích chứa lại còn nhiều hơn nước trong bốn bể». Nhân loại lúc nào cũng rên xiết, quằn quại trong đau khổ. Nhiều người đau khổ đến tận cùng đến nỗi phải tìm đến cái chết để thoát khổ, nhưng không phải lúc nào cũng thành công.

Trong cơn đau khổ cùng cực, con người cảm thấy cô đơn tuyệt vọng, không còn biết trông vào đâu. Niềm cậy trông cuối cùng là vào Thiên Chúa thì cũng hỏng nốt vì Ngài hoàn toàn im lặng như chẳng ngó ngàng gì đến con cái của Ngài đang bất mãn. Thật là đau khổ và tức tối khi nghĩ rằng Thiên Chúa Đấng tạo dựng nên con người đau khổ này lại hoàn toàn hạnh phúc, không hề nếm mùi đau khổ bao giờ, và dành toàn bộ đau khổ – thậm chí đau khổ cùng cực – cho đàn con khốn nạn mình tạo dựng nên.

Có thật là Thiên Chúa không hề đau khổ, không hề chia sẻ nỗi bất hạnh với con người không?


Thiên Chúa cũng đau khổ

Đức tin Kitô giáo không cho phép người Kitô hữu nghĩ Thiên Chúa là một người Cha vô tình như thế. Ngài không thể tàn nhẫn và ích kỷ như thế vì bản chất của Ngài là tình yêu (1Ga 4,8.16). Thánh Kinh mặc khải cho con người biết Thiên Chúa cũng đau khổ, cũng biết khóc, cũng bị dằn vặt như con người, đương nhiên theo cách thức của Ngài, vì hiện hữu của Ngài không giống như của con người. Và nếu như thế, con người không phải chỉ đau khổ một mình, vì chính Thiên Chúa, Đấng tạo dựng họ và là Cha của họ, cũng cùng chia sẻ đau khổ với họ. Ngài cùng đau khổ với con người, và chính vì con người mà Ngài mới đau khổ. Ngài đau khổ vì muốn cứu độ họ, làm dịu bớt những nỗi đau thương của họ. Ngài đau khổ để biến những đau khổ của họ thành những giá trị tuyệt vời đem lại hạnh phúc vĩnh cửu cho họ.

Thiên Chúa cũng đau khổ, đó là chủ trương của nhiều thần học gia Á châu, điển hình nhất là thần học về sự đau khổ của Thiên Chúa theo Kazo Kitamori, một thần học gia tại chủng viện Nhật Bản cũng là giáo sư thần học tại chủng viện Tokyo. Năm 1946, ông có xuất bản cuốn sách đầu tiên của thần học Nhật Bản về Thập Giá, trong đó nói nhiều về sự đau khổ của Thiên Chúa. Theo ông, trọng tâm của Tin Mừng không phải chỉ là Đức Tin, mà là «tình yêu đã khiến Thiên Chúa phải đau khổ». Đó cũng là một chủ đề thần học của Giêrêmia và Phaolô. Giêrêmia là vị ngôn sứ «nhìn thấy» trái tim của Thiên Chúa một cách rất sâu sắc: «Chúa phán: Trái tim Ta rạn nứt ra» (Gr 31,20). Ông là Phaolô của Cựu Ước, cũng như Phaolô là Giêrêmia của Tân Ước. Vị «Thiên Chúa trên Thập Giá» mà Phaolô rao giảng chính là vị «Thiên Chúa đau khổ của Giêrêmia». Toàn bộ Thánh Kinh đều phảng phất nỗi khổ tâm của Thiên Chúa về con người, như một người chồng đau khổ vì người vợ phản bội (Hs 2,3-19; Lc 15,11-32)

Chúng ta hãy xem Kinh Thánh nói gì về vấn đề này.


Mặc khải của Kinh Thánh

Trong Kinh Thánh, nhiều chỗ cho biết Thiên Chúa cũng có những tâm tình, cảm xúc tương tự như con người: Ngài cũng yêu thương, cảm động, thương xót, chán ghét, giận dữ, ghen tương… Điều đó rất dể hiểu vì Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thượng Đế vô ngã, mà là một Thiên Chúa hữu ngã, có bản vị. Đã có ngã vị thì tất phải có những tương quan cá biệt với những ngã vị khác, trong đó tình cảm, tâm tình, cảm xúc đóng một vai trò quan trọng. Tình cảm quan trọng nhất của Thiên Chúa là tình yêu vì theo thánh Gioan, Thiên Chúa được định nghĩa là tình yêu (x. Ga 4,8.16). Toàn bộ Tin Mừng mà chúng ta tin và rao giảng chính là «Thiên Chúa yêu thương con người» (Ga 3,16).

Chính tình yêu đã biến Thiên Chúa vốn không thể đau khổ thành một Thiên Chúa đau khổ. Và chính đau khổ của Ngài là bằng chứng hùng hồn nhất chứng tỏ Ngài yêu thương con người. Nếu Ngài không hề đau khổ khi thấy con người hư hỏng và rơi vào đau khổ, thì làm sao có thể nói được rằng Ngài yêu thương con người? Vả lại, tình yêu chỉ có thể chứng tỏ bằng hy sinh, nghĩa là bằng sự chấp nhận đau khổ, mất mát, thiệt thòi. Nguyên nhân duy nhất cho mọi đau khổ của Ngài là tình yêu đối với con người: vì Ngài yêu thương con người vô bờ bến, nhưng bị con người từ chối đáp lại, đồng thời phản bội và xúc phạm tình yêu ấy, và vì Ngài thấy con người mà Ngài yêu thương đã bị mất giá trị, trở thành hư đốn nên lâm vào cảnh đau khổ.

Tình yêu đã khiến Thiên Chúa xúc động, động lòng thương xót trước sự băng hoại và lầm than của con người. Tình trạng đáng thương của con người đã khiến tâm hồn Ngài xót xa, thổn thức, khổ tâm. Tiên tri Giêrêmia đã diễn tả nỗi khổ tâm của Ngài đối với Êphraim, tượng trưng cho nhân loại: «Đối với ta, Êphraim là đứa con trai yêu quí, là đứa con mà Ta thương đến nỗi mỗi lần Ta đe phạt nó là Ta luôn luôn tưởng nghĩ đến nó, trái tim Ta bị rạn nứt vì nó, và lòng ta tràn ngập niềm yêu thương nó» (Gr 31,20). Trái tim của Thiên Chúa đã phải rạn nứt ra, và mắt Ngài đã phải đổ lệ khi nghĩ đến hình phạt mà con người phải chịu vì sự băng hoại của họ.

Nỗi đau khổ của Thiên Chúa phần nào tương tự như nỗi đau khổ của một người cha hay mẹ có những đứa con hư đốn đang chịu hậu quả đau thương vì sự hư hỏng của chúng. Cha mẹ nào có những đứa con hư hỏng tội lỗi sẽ cảm thông dễ dàng với những nỗi đau đớn của Thiên Chúa do loài người hư hỏng gây nên. Thật là đau khổ khi thấy những đứa con mình sinh ra, những đứa con mà mình đã hết lòng yêu thương, đem hết tâm lực giáo dục dạy dỗ, kỳ vọng chúng trở thành tốt, giỏi, lại trở nên hư đốn, tội lỗi, bất hiếu, phản bội, làm nhiều tội ác. Người cha hay mẹ không hề giận dữ khi thấy đứa con của người hàng xóm làm điều sai trái, vì giữa họ và đứa trẻ kia không có tình thương hoặc họ không có trách nhiệm giáo dục nó. Nhưng họ sẽ giận dữ lên nếu đứa trẻ đó chính là con cái mình. Nếu họ không giận dữ trong trường hợp đó, thì điều đó chứng tỏ họ không yêu thương con mình và không ý thức về trách nhiệm giáo dục của mình.

Khi thấy những hành động sai trái của con cái mình, những cha mẹ đáng thương ấy phải nổi giận lên. Cơn giận ấy có thể lên đến cực độ đến nỗi họ có thể giết chết con cho hả giận, hay từ bỏ chúng, hoặc chửi mắng đánh đập chúng nên thân. Lúc giận dữ thì tình thương con dường như biến đi đâu mất, không còn nữa. Đứa con dường như bị ghét bỏ. Nhưng khi cơn giận đã nguôi, nhất là khi thấy con đang đau khổ vì bị trừng phạt, tình thương con lại trở về dằn vặt tâm hồn cha mẹ. Lúc đó, tâm lý «giận thì giận, mà thương thì thương» thật rõ ràng, thực tế. Tình thương «như Thái Sơn», «như nước nguồn» không vì những hư đốn của coi cái mà tiêu tan đi được. Không những không tan đi mà có thể còn tăng lên bội phần, nhất là nơi những cha mẹ giầu tình cảm, nặng yêu thương.

Cứ nghĩ đến con mình là do mình sinh ra, là máu mủ của mình, do mình mà có, là hình ảnh của mình, hình ảnh đó còn in trên nét mặt, trên tính tình của chúng, mà lòng cha mẹ lại dạt dào tình thương. Mình sinh ra chúng là vì mình muốn, chứ chúng nào có đòi mình sinh ra đâu, vì thế, mình có bổn phận yêu thương chúng và làm cho chúng được hạnh phúc, lẽ nào chúng hư đốn mà mình bỏ rơi chúng được. Con cái chính là «bản thân nối dài» của cha mẹ, nên tự nhiên cha mẹ thương con như chính bản thân mình. Tình thương đó khiến cha mẹ lúc nào cũng gắn bó với con cái, lo cho hạnh phúc của chúng.

Nhưng sự thiện hảo hay lòng hướng thiện của cha mẹ không thể nào chấp nhận những hư đốn của con cái hay tiếp tục để chúng hư đốn mãi được. Phải sửa phạt chúng, thậm chí với bất cứ giá nào. Nhưng sửa phạt chúng, làm cho chúng đau khổ là một việc làm bất đắc dĩ. Phải thực hiện điều đó làm cho lòng cha mẹ xót xa. Trước khi đi đến quyết định sửa phạt, trong nội tâm cha mẹ xảy ra một cuộc giằng co, một cuộc tranh đấu giữa tình thương và trách nhiệm giáo dục. Tình thương không chấp nhận làm con cái đau khổ, nhưng trách nhiệm giáo dục bắt buộc phải làm điều đó. Đó là sự giằng co giữa tình thương bằng con tim và tình thương bằng khối óc. Sự giằng co ấy làm cho cha mẹ phải đau khổ.

Tình thương của Thiên Chúa cũng đấu tranh với sự công bằng của Ngài và làm cho Ngài phải đau khổ. Sự đau khổ ấy đã được Đức Giêsu diễn tả qua dụ ngôn «đứa con phung phá» (Lc 15,11-32). Người cha có thể vì giận đứa con hư hỏng nên đã chia gia tài cho nó theo như nó yêu cầu để tống khứ nó ra khỏi nhà. Nhưng khi đứa con đã đi khỏi, cơn giận người cha đã nguôi ngoai, ông mới bắt đầu nhớ thương con. Sự vắng mặt của nó trong nhà làm cho tâm hồn ông đau khổ vì giữa ông với nó là một tình yêu sâu đậm: yêu thương không chấp nhận xa cách. Ông đau khổ vì không biết nó sống chết ra sao, sướng khổ thế nào, nhưng nhất là vì nó là thằng con bất hiếu và đang sống một cuộc đời tội lỗi. Cơn giận làm ông muốn quên nó đi, nhưng tình thương lại khiến ông nhớ đến nó hoài. Cuối cùng tình thương đã thắng khiến ông đi đến một hành động cụ thể là hằng ngày ra cửa mong ngóng con về, tội lỗi của nó đã trở thành mờ nhạt đi trước nỗi nhớ nhung. Phải thường xuyên trông ngóng nó quay về, ông mới có thể trông thấy nó khi nó còn ở đằng xa. Và tình thương được biểu lộ ngay bằng hành động hôn lấy hôn để, cho dẫu nó chưa ngỏ lời xin lỗi ông. Và một khi đứa con đã thực sự hối hận, bao nhiêu tội lỗi của nó ông đều tha thứ hết…

Người Cha nhân từ đó là hình ảnh mà Chúa Giêsu đưa ra để diễn tả về Thiên Chúa Cha. Ngài cũng đau khổ vì giận và vì thương, và vì có sự giằng co giữa giận và thương. Nếu không đau khổ, không giận dữ thì chứng tỏ Ngài rất lãnh đạm với con người, mà lãnh đạm tức là không có tình thương. Vậy, có thể kết luận là trong trường hợp con người sa ngã và lâm vào đau khổ, nếu Thiên Chúa không đau khổ thì Ngài không còn là Ngài nữa, không còn là tình thương nữa.

Trong Cựu ước, có rất nhiều chỗ xác nhận Thiên Chúa thịnh nộ và ghen tương, điều đó chắc chắn phải bao hàm việc Ngài phải khổ đau. Có ai giận dữ hoặc ghen tương mà lại không đau khổ? Sự giận dữ và ghen tương của Thiên Chúa không phát xuất từ lòng ích kỷ mà phát xuất từ tình yêu. Sự ghen tương thường phát xuất từ tình yêu. Hễ đã yêu thực sự thì đương nhiên sẽ phải buồn bực và đau khổ khi thấy người mình yêu phản bội hay dành tình thương cho người khác. Không yêu thì không ghen, và không ghen chứng tỏ không yêu. Điều đó càng đúng cho tình yêu của Thiên Chúa, vì Ngài yêu thương con người vô cùng, và Ngài đã dựng nên con người để con người yêu Ngài, đáp lại tình yêu của Ngài. Nhất là vì chỉ có Ngài là đáng yêu nhất, và vì con người chỉ có thể hạnh phúc khi yêu Ngài. Ngài không ghen tương vì ta yêu người khác, trái lại còn mong ta yêu mọi người và hy sinh hết mình cho họ. Ngài chỉ ghen tương vì ta đã yêu một ai đó, coi trọng một vật nào đó hơn cả chính Ngài, Đấng xứng đáng đáng được yêu và được quý trọng hơn tất cả.

Sự thịnh nộ của Thiên Chúa đã được tiên tri Êdêkien diễn tả: «Ta giận chúng hết mức rồi! trong cơn tức giận, ta quyết trừng phạt chúng. Khi đó chúng mới biết ta là Chúa. Ta đã nói trong lúc ghen tức và đi tới tận cùng cơn giận của ta đối với chúng» (Ed 5,13). Tiên tri Giêrêmia cũng nói: «Ngài giận làm trái đất rung động lên. Các dân tộc không sao chịu nỗi cơn thịnh nộ của Ngài» (Gr 10,10). Thánh Vịnh nói: «Thiên Chúa là quan án công minh và chậm giận, nhưng lúc nào cũng dễ giận với những phường gian ác» (Tv 7,12). Thánh Phaolô cũng nói: «Thiên Chúa tỏ ra giận dữ chống lại mọi thứ vô luân và bất chính» (Rm 1,18).

Chúa thịnh nộ vì tình yêu của Ngài bị chối bỏ, bị hất hủi, bị xúc phạm. Thịnh nộ là một hình thức rõ rệt biểu lộ sự đau khổ. Ghen tương cũng là phản ứng của một tâm hồn bị đau khổ, và là hình thức đau khổ cao độ: đau khổ vì bị người tình phản bội, dành tình yêu cho một đối tượng khác.

Ngoài ra, Kinh Thánh còn nói đến tâm tình chán ghét, ghê tởm của Thiên Chúa như: «Ta đã chán ngấy những hy lễ bằng chiên cừu, bằng bò của các ngươi rồi. Đừng dâng lên ta những của lễ vô ích nữa. Chúng bốc khói lên làm ta kinh tởm. Ta chán ghét thượng hạng những buổi lễ lạc, hành hương của các ngươi. Ta chịu hết nổi rồi» (Is 1,11.13-14). Những tâm tình đó nói lên sự chịu đựng, nỗi khổ tâm của Thiên Chúa trước sự đạo đức giả của dân Ngài.

Kinh Thánh thực ra không có câu nào nói trắng ra là Thiên Chúa đau khổ, nhưng đã gián tiếp nói lên điều đó rất rõ ràng. Vì thế, sự đau khổ của Thiên Chúa có thể được coi là một chân lý mặc khải.


Tại sao Thiên Chúa đau khổ?

Vì yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài, đã ấp ủ con người bằng tình thương, nhận con người làm con cái với quyền thừa kế gia sản là hạnh phúc vĩnh cửu và quyền thống trị vạn vật. Ngài chỉ mong con người đáp lại tình yêu thương của Ngài bằng chính lòng yêu thương của họ. Ngài muốn tình yêu đáp lại đó phải là một tình yêu tự do, chứ không phải là thứ tình yêu mang tính tất yếu hay ép buộc. Cũng như khi một chàng trai yêu một cô gái, luôn luôn anh muốn cô đáp lại tình yêu của mình một cách tự nhiên, tự nguyện bằng một tình yêu tự do, chứ không bao giờ muốn hay hài lòng với một tình yêu bị cưỡng chế bằng bùa ngải, áp lực, hay bằng sự lừa dối. Vì thế, Thiên Chúa đã ban cho con người tự do, để có thể đáp trả hay từ chối tình yêu của Ngài, để có thể chống lại Ngài hay theo phe thù địch với Ngài. Hậu quả của sự việc ấy là con người đã trở thành hư hỏng, mất quyền làm con Thiên Chúa, mất sự sống vĩnh cửu, phải đau khổ, phải chết, tâm trí con người trở nên u tối, lòng con người hướng về điều ác… con người trở thành một sản phẩm bị hư, «không xài được», chỉ còn nước bị phế thải. Sự kiện này làm Thiên Chúa hờn giận và đau khổ, đồng thời phát sinh nhiều vấn đề được giải quyết.

Bản tính của Ngài là công bình, như Kinh Thánh vẫn diễn tả: «công bình và chính trực là nền tảng cho ngai tòa của Ngài» (Tv 88,15). «Chúa ưa thích công bình và khinh ghét gian ác» (Dt 1,9). «Đường lối của Ngài là công bình và chân thật» (Kh 15,3). Sự công bình trong bản tính Ngài đòi Ngài phải trừng phạt con người, bắt con người phải đền tội một cách xứng đáng, đồng thời loại con người ra khỏi tình thương và sự bao bọc của Ngài. Nhưng sự việc nào có đơn giản như vậy được? Vì bản tính của Ngài đâu phải chỉ là công bình mà còn là tình thương nữa. Trừng phạt con người thì thỏa mãn sự công bình nhưng lại đi ngược với tình thương của Ngài. Con người tuy đã sa đọa, nhưng điều đó không làm cho tình thương của Ngài đối với họ giảm sút đi được. Thánh Kinh diễn tả tình yêu của Ngài rất bền vững: «Đàn bà có thể quên con thơ, hay quên được con trai mình sinh ra chăng? Nhưng cho dù họ có thể quên con họ đi nữa, Ta cũng không hề quên ngươi!» (Is 49,15). Nơi con người, tình thương cha mẹ không dễ gì mất đi hay giảm sút vì đứa con hư hỏng hay tàn tật, trái lại, có thể chính vì thế mà tình yêu lại tăng lên. Nơi con người còn như thế, huống gì nơi Thiên Chúa, nguồn mạch của tình thương? Chính khi con người sa đọa và đau khổ, con người mới cần tới tình thương của Ngài hơn bao giờ hết, lẽ nào Ngài bỏ con người được? Tình trạng con người lúc này rất đáng thương, cần được Ngài ra tay cứu vớt. Điều đó đâu vượt khỏi khả năng hay giới hạn của Ngài!

Thế là trong nội tâm Thiên Chúa phát sinh hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau: tình thương thì đòi hỏi tha thứ cứu vớt; công bằng và thịnh nộ thì đòi hỏi trừng phạt, phế thải. Hai lực mâu thuẫn đó ngang ngửa nhau, không bên nào hơn bên nào, khiến cho nội tâm Thiên Chúa bị giằng co, dằn vặt và đau khổ. Lúc này Thiên Chúa duy nhất như bị phân làm hai: «Thiên Chúa Tình Thương» chống lại «Thiên Chúa công bằng», vì Thiên Chúa công bằng và thịnh nộ muốn hủy bỏ con người hư hoại đã làm tổn thương Thiên Chúa một cách sâu xa. Ngài «ân hận vì đã dựng nên loài người, Ngài buồn rầu trong lòng và quyết định: Ta sẽ hủy diệt loài người do Ta tạo thành… , Ta phàn nàn vì đã dựng nên chúng» (St 6,6-7; x. Gr 18,10). Nhưng Thiên Chúa tình thương lại muốn ôm vào lòng sự hư hoại đó, sự hư hoại đáng kinh tởm mà Thiên Chúa công bằng không sao chấp nhận được. Và Thiên Chúa tình thương cũng không sao chịu đựng được khi để yên cho vị Thiên Chúa công bằng ra tay sát phạt con người. Cuộc nội chiến đó xảy ra rất cam go và ác liệt trong cung lòng Thiên Chúa duy nhất với tất cả sức mạnh vô biên của bản tính Thiên Chúa. Vì thế sự đau khổ của Thiên Chúa cũng là vô biên.


Sự đau khổ của Thiên Chúa được thể hiện trong lịch sử con người qua Đức Giêsu Kitô

Cách giải quyết của Thiên Chúa

Hai thế lực vô biên mâu thuẫn và nội tại trong Thiên Chúa đòi hỏi một giải quyết ổn thỏa: làm sao dung hòa được hai khuynh hướng mâu thuẫn đó. Vấn đề không đơn sơ và dễ dàng. Tình thương thúc đẩy Thiên Chúa cứu vớt con người, giúp con người đền bù lại tội lỗi của họ để thỏa mãn khuynh hướng công bằng nơi Ngài. Nhưng làm sao đền bù được cho hợp lý và cân xứng vì Thiên Chúa mà con người xúc phạm tới là một Thiên Chúa cao cả siêu việt, tuyệt đối vô song. Muốn đền bù tội xúc phạm đó cách cân xứng, sự công bằng đòi hỏi trong con người phải có một vị ngang hàng với Thiên Chúa mới có thể thực hiện được.

Con người đã làm Thiên Chúa phải đau khổ và tổn thương sâu xa, thì về phía con người, cần phải có một vị tương xứng với Thiên Chúa chịu đau khổ cùng tột để bù lại. Nhưng con người quá nhỏ bé về giá trị và khả năng, làm sao có đủ tư cách để đền bồi xứng đáng cái tội tày trời là xúc phạm đến vị Thiên Chúa vô hạn, tuyệt đối, cao cả ấy? Theo sự công bằng và lẽ phải, sự đền bù phải là «môn đăng hộ đối», nhưng làm sao nâng cấp con người lên ngang hàng với Thiên Chúa được?

Lấy một thí dụ trong xã hội loài người để minh hoạ: một ông có chức vụ rất lớn trong xã hội bị một đứa trẻ xúc phạm nặng nề, nếu đứa trẻ chỉ hối hận và ngỏ lời xin lỗi thì không thể làm ông hả hê cơn giận. Nhưng nếu cha đứa trẻ cũng là một ông lớn ngang hàng với ông đó khiêm nhường tới xin lỗi - một hình thức bị xúc phạm nhưng tự nguyện - thì ông kia mới hả hê cơn giận được, và tội của đứa trẻ mới được coi như xóa hết. Sự đòi hỏi của khuynh hướng công bằng và thịnh nộ nơi Thiên Chúa có phần nào tương tự như vậy. Đối với con người, đòi hỏi đó quả là vô phương thực hiện. Con người làm sao có được đại diện tương xứng với Thiên Chúa để chị đau khổ một cách cân xứng với sự xúc phạm tày trời ấy? Thật là tuyệt đối vô phương nếu Thiên Chúa không phải là tình yêu, vì tình yêu vô biên của Thiên Chúa đã thúc đẩy Ngài đóng chính vai trò ấy, bằng cách cho Ngôi Hai Thiên Chúa mặc lấy xác thịt để trở thành một người con của nhân loại. Người ấy chính là Đức Giêsu Nazarét.

Thế là Thiên Chúa vô biên bất khả hư hoại đã mặc lấy kiếp sống hữu hạn, bị chi phối bởi những định luật vật chất «thành, trụ, hoại, không», làm mồi cho đau khổ. Ngài đã «chia sẻ thân phận con người như chúng ta, chịu thử thách về mọi phương diện như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi» (Dt 4,15). Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã trở thành con người. Vì thế, Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa, hoàn toàn ngang hàng với Thiên Chúa (Pl 2, 6), vừa là con người, hoàn toàn đứng trong hàng ngũ con người, có đủ tư cách đại diện cho con người. Vì thế, Đức Giêsu có đầy đủ tư cách để đền bù tội lỗi cho con người một cách tương xứng trước mặt Thiên Chúa, đúng như sự công bình của Thiên Chúa đòi hỏi.

Và bây giờ, Đức Giêsu, một người hoàn toàn vô tội, vì đại diện cho cả loài người có tội, cũng bị Thiên Chúa coi như một tội nhân khủng khiếp. Ngài đã trở thành đối tượng cho cơn thịnh nộ đầy ắp của Thiên Chúa giáng xuống. Ngài đã bị Thiên Chúa trừng phạt một cách thảm khốc, đã đau khổ tột cùng và đã chết đẫm máu trên Thập Giá, tại Golotha. Thế là vấn đề nan giải đã giải quyết xong. Thiên Chúa công bằng đã được Thiên Chúa tình thương làm nguôi cơn giận, vì chính Thiên Chúa tình thương đã đền tội lỗi thay cho con người.

Như vậy là cuộc nội chiến quyết liệt giữa tình thương và công bằng trong nội tâm Thiên Chúa đã được thể hiện ra bên ngoài, trong không gian, thời gian, trong lịch sử nhân loại, tại đồi Golgôtha, nước Do Thái, cách đây gần 2000 năm. Cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu đã làm thỏa mãn hai khuynh hướng mâu thuẫn của Thiên Chúa. Cuộc tử nạn đẫm máu đó vừa nói lên sự công bình bất khả nhượng của Thiên Chúa đối với tội lỗi, bất công, xúc phạm, vừa biểu lộ một cách hùng hồn và sống động tình thương vô biên của Thiên Chúa trước sự phản bội và hư mất của con người.

Vì Đức Kitô là «hình ảnh của Thiên Chúa vô hình» (Cl 1,15), nên sự đau khổ của Thiên Chúa chắc chắn phải được phản ảnh nơi con người Đức Giêsu Kitô. Vả lại, Đức Giêsu cũng nói «Ai thấy Ta là thấy Cha Ta» (Ga 14,9), nên cứ nhìn vào sự đau khổ của Đức Giêsu là có thể hiểu được sự đau khổ của Thiên Chúa.


Những đau khổ của Đức Giêsu phản ảnh trung thực những đau khổ của Thiên Chúa


Thế gian không đón nhận vì không nhận ra Ngài

Nỗi đau khổ lớn nhất và cũng là đầu mối dẫn đến những đau khổ khác của Ngài đã được Thánh Gioan nói đến trong bài mở đầu Tin Mừng của Ngài: «Người ở giữa thế gian, thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận» (Ga 1,10-11). Thật vậy, còn nỗi đau khổ nào lớn bằng nỗi khổ của một người Cha đã sinh con cái, đã xây dựng nhà cửa cho chúng và nuôi dưỡng chúng, nhưng khi ông vì quá yêu thương con cái nên muốn tới ở với chúng, thì chúng không nhận ra ông là cha, cho dẫu có xưng tên chúng cũng không nhìn nhận. Chẳng những thế, chúng còn xỉ nhục và giết ông nữa. Trước khi ông đến, ông đã gởi thư báo cho chúng biết ông sẽ đến hàng tháng trước. Lý do khiến chúng không nhận ra và nhìn nhận ông là vì chúng đã quan niệm về hình ảnh của ông một cách sai lạc do bản tính thấp hèn và trí tuệ ngu muội của chúng.

Đức Kitô chính là Ngôi Lời Thiên Chúa, «nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và nếu không có người thì chẳng có gì được tạo thành» (Ga 1,2-3). Thế gian này chính do Ngài tạo nên: cả con người lẫn vạn vật chung quanh con người. Vì con người phản bội Thiên Chúa nên lâm cảnh khốn cùng, Ngài đã hứa qua miệng các tiên tri hàng trăm năm trước rằng Ngài sẽ đến ở với họ và cứu họ. Họ cũng mỏi mắt trông chờ Ngài đến. Nhưng khi Ngài đến không giống như quan niệm họ có sẵn về Ngài, không sống theo kiểu thánh thiện sai lạc của họ, thì họ không nhận ra, cũng không chấp nhận Ngài, thậm chí họ còn cho rằng Ngài từ ma quỷ mà đến, và quyền phép của Ngài là do ma quỷ (x. Mt 12,24). Vì quan niệm của Ngài, cách sống của Ngài khác hẳn với họ, nên họ đã thù ghét Ngài và giết chết Ngài.


Bị thế gian tìm giết ngay khi vừa sinh ra

Việc thế gian không chấp nhận Ngài đã được thể hiện ngay từ khi Ngài sắp lọt lòng mẹ. Vì cha mẹ Ngài hiện thân là người nghèo, nên khi từ Nazarét về Bêlem, quê hương tổ phụ Ngài, mặc dù mẹ Ngài đang mang thai, vẫn không có một quán trọ nào tiếp nhận gia đình Ngài. Có lẽ không phải vì họ không có chỗ cho bằng họ không muốn tiếp nhận những kẻ không có tiền. Nếu Ngài hiện thân là người giàu có, chắc hẳn có khối kẻ tiếp nhận và đối đãi với Ngài tử tế, nhưng Ngài lại không muốn thế. Không ai tiếp nhận Ngài, Ngài phải sinh ra nơi chuồng súc vật. Thật là một kỷ niệm chua chát!

Mà Ngài nào đã được yên! Khi vua Hêrốt và giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái biết được Ngài đã sinh ra tại Bêlem, khi các đạo sĩ từ phương Đông đến hỏi, họ không những không đến thờ lạy Ngài, mà còn muốn tìm giết Ngài, nếu Ngài không trốn đi kịp, chắc chắn Ngài đã là một trong những trẻ em bị giết tại Bêlem. Đâu phải họ không biết Ngài là Đấng Cứu Thế, nhưng chính vì biết Ngài là Đấng Cứu Thế nên họ mới quyết tâm giết Ngài. Ngài chưa làm gì cả, mới chỉ hiện diện, mà thế gian đã tỏ thái độ thù ghét Ngài. Họ sợ Ngài có hại cho địa vị, quyền lợi của họ. Thật là buồn tủi. Ngài sinh ra tại chính quê hương tổ phụ Ngài, trong lãnh thổ của dân Ngài, nhưng ngay khi Ngài sinh ra, thì phải chạy sang nước ngoài lánh nạn do chính dân Ngài gây ra cho Ngài. Ai Cập là kẻ thù của dân Ngài, nhưng lại là nơi nương thân cho Ngài. Thế là Ngài không được ở trong chính đất nước của Ngài ngay từ lức sinh ra: một cách nào đó, Ngài đã bị đuổi khỏi nước của Ngài.


Bị khinh rẻ vì nghèo khổ

Cuộc đời ẩn dật của Ngài chắc hẳn là cuộc đời của một người lao động nghèo. Chắc chắn Ngài thấm thía những nỗi khổ của cảnh nghèo nàn túng thiếu hơn ai hết: người nghèo không những bị khổ vì túng thiếu, mà còn là đối tượng thường xuyên nhất của những áp bức, bóc lột, bất công trong xã hội. Chắc chắn Ngài đã từng bị hất hủi, khinh bỉ chỉ vì nghèo. Nhưng nỗi khổ vì chính mình bị nghèo và do đó bị nhiều nỗi bất hạnh khác thì ít, mà nỗi khổ còn lớn hơn nữa là thấy thế giới này là một thế giới đầy bất công, vắng bóng yêu thương, và chính vì thế mà thế giới này trở thành đáng thương. Đó chính là hậu quả tai hại của tội nguyên tổ, đồng thời là nguyên nhân cho mọi đau khổ và rối loạn ở trần gian. Nhân loại sẽ còn đau khổ và rối loạn hơn nữa nếu tình thương cứ tiếp tục thiếu thốn hoặc vắng bóng trên trần gian. Tình thương của Ngài đối với nhân loại khiến Ngài cảm thấy xót xa cho họ, và nỗi khắc khoải của Ngài là làm sao đưa tình thương vào trong tâm hồn con người và nhóm nó lên thành một ngọn lửa tình yêu nóng rực. Chỉ có tình yêu mới có thể giải quyết được tình trạnh rối loạn và bất hạnh của con người.


Sống trong một thế giới thiếu tình thương

Nhưng làm cho người ta yêu thương nhau thật khó! Người ta có thể nghe hàng trăm bài giảng về tình yêu, thậm chí có thể giảng lại cho người khác thật hay về tình yêu, nhưng tâm hồn họ vẫn có thể khô hạn, trái tim họ vẫn có thể chai cứng không có tình yêu. Cứ nhìn vào những Rabbi Do Thái, những luật sĩ hay biệt phái thì thấy rõ, họ rao giảng về tình yêu nghe thật là hay, nhưng cuộc sống của họ chẳng có tình yêu chút nào. Đối với đồng bào, họ lợi dụng lòng sùng đạo và niềm tin của quần chúng để có một cuộc sống dễ dãi, vừa được kính trọng lại vừa đầy đủ về vật chất. Nghệ thuật làm tiền của họ rất tinh vi, «họ làm bộ đọc kinh cầu nguyện thật lâu giờ để cuối cùng nuốt hết tài sản của các bà góa» (Mt 23,14). Ai cũng thấy họ giữ luật lệ rất nghiêm nhặt, thậm chí cả những luật của tiền nhân, nhưng đời sống của họ chẳng tỏa ra được một chút gì là tình thương cả. Cứ xem họ đối xử với nhau thì biết: hai người có thể ở chung một nhà, nhưng không thể ăn chung một «nồi cơm», không thể chia sẻ của cải cho nhau. Họ ganh ghét tị nạnh nhau, thậm chí hạ bệ nhau, thóa mạ nhau… Ngài thấy họ không có những đức tính phải có để có thể sống trong nước Thiên Chúa, một xã hội lý tưởng mà Ngài đang quyết tâm thực hiện cho trần gian này. Phải có tinh thần yêu thương thì mới xứng đáng sống trong cái xã hội hạnh phúc này. Ngài cảm thấy những người nghèo khổ dễ có những đức tính ấy hơn. Do đó Ngài cảm thấy «Phúc cho những người nghèo khó vì nước Thiên Chúa là của họ» (Mt 5,3). Tư tưởng của Ngài thường ngược hẳn với người đời như thế, nên người chung quanh thường cho rằng Ngài dở hơi, thậm chí là mất trí nữa.


Bị cô độc vì không được ai hiểu

Một nỗi khổ tâm rất lớn của Ngài là sự cô độc, vì không ai hiểu được Ngài, không ai đồng lập trường với Ngài, có chăng chỉ là Mẹ của Ngài. Vì Ngài là hiện thân của Thiên Chúa Tình Thương, Ngài đến trần gian để xoa dịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa Công Bằng. Sự đòi hỏi của tình thương đôi khi đi ngược hẳn lại với sự đòi hỏi của công bằng. Nơi Ngài, sức mạnh của tình thương dường như lớn hơn sức mạnh của sự công bằng rất nhiều. Đứng trước một xã hội hư hỏng của con người, đôi khi Ngài cũng cảm thấy cần phải dùng Lửa để rửa tội cho họ (x. Mt 3,11), nghĩa là tiêu diệt họ để lập nên một xã hội mới. Nhưng tình thương nơi Ngài vẫn mạnh hơn khiến Ngài bác bỏ cách thức giải quyết đó. Phải cứu vớt những gì hư mất (x. Lc 19,10).

Ngay cả Gioan Tẩy giả, vị Tiền Hô của Ngài cũng không đồng lập trường với Ngài về mặt này, ông không thể hiểu nổi lập trường của Ngài, huống gì đám người kém cỏi tội lỗi kia. Gioan thật đúng là một người công chính, đức hạnh của ông không chỗ nào chê được. Ông là người nghiêm trang, cương quyết, đầy nghị lực, đời sống của ông rất mẫu mực, khắc khổ, thậm chí còn mẫu mực và khắc khổ hơn cả Ngài nữa. Đứng trước sự hư hỏng và tội lỗi của con người, ông đứng về phía Thiên Chúa hơn là về phía con người, ông ủng hộ vị Thiên Chúa công bằng và thịnh nộ hơn là vị Thiên Chúa yêu thương. Chủ trương của ông là «cái rìu đã để sẵn ở gốc cây, cây nào không sinh hoa trái thì phải chặt và quăng vào lửa» (Mt 3,10). Thiên Chúa không nên chờ đợi thêm nữa. Quan niệm của ông về chính Ngài – Đấng Cứu Thế – là và phải là: «Đấng đến sau tôi quyền thế hơn tôi… Ngài sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và trong Lửa. Tay Ngài cầm nia, Ngài sẽ rê sạch lúa trong sân. Thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi» (Mt 3,11-12). Ngài hiểu ông từ trong tâm can, vì đôi khi chính Ngài cũng chủ trương phải như thế. Nhưng bây giờ thì Ngài không thể chấp nhận một chủ trương đầy công bằng nhưng không mấy yêu thương như vậy. Cái trớ trêu là: ông Gioan là người, nhưng lại đứng về phía Thiên Chúa, còn Ngài là Thiên Chúa thì lại đứng về phía con người. Nhân loại này quả thật là khó thương, thậm chí đang chống lại Ngài, và có thể hại Ngài nữa, nhưng Ngài vẫn thương họ và muốn cứu vớt họ, vì họ tuy khó thương nhưng lại rất đáng thương. Vì thế, Gioan không sao hiểu được Ngài, ông không thể ngờ được rằng Thiên Chúa có thể kiên nhẫn hơn nữa để chờ đợi con người. Theo Gioan thì không còn chỗ đứng trước mặt Thiên Chúa cho những người tội lỗi. Do đó, kẻ có tội phải ăn năn và chịu phép rửa cho kịp thời trước khi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống. Ai không hối hận và trở về con đường ngay chính sẽ phải chết. Thiên Chúa đang nổi giận, Ngài không khoan nhượng và chờ đợi lâu hơn nữa.


Thông cảm với những yếu đuối của con người

Còn Đức Giêsu, với thời gian mấy chục năm ở giữa loài người, Ngài rất thông cảm với những yếu đuối và ngu muội của họ. Ngài thấy ai ai cũng khát khao hạnh phúc. Chính Thiên Chúa đã đặt trong lòng họ niềm khao khát đó. Nhưng khổ nỗi lòng trí họ ngu muội quá không biết đâu là hạnh phúc đích thực và trường cửu. Họ chỉ thấy được những hạnh phúc giả tạm nhất thời trước mắt, mà không thấy được hạnh phúc vĩnh cửu và đích thực để đạt tới bằng đời sống tốt đẹp của họ. Vì thế, họ đã hành động ngược lại với hạnh phúc đích thực chỉ để đạt được một số hạnh phúc giả tạm. Có những người ý thức được hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng ý chí của họ quá yếu đuối trước sự hấp dẫn ngay trước mắt của những hạnh phúc chóng qua, khiến họ không cưỡng lại được những cám dỗ, những khuynh hướng tội lỗi. Chính Ngài cũng đã từng bị cám dỗ: Ngài thấy sức cám dỗ của ma quỷ rất mạnh mẽ khiến Ngài phải dùng hết sức bình sinh mới thắng lướt được. Vì thế, Ngài rất cảm thông với những yếu đuối của họ (x. Dt 4,15), rất ít khi kết án kẻ có tội, có chăng chỉ kết án những kẻ kiêu ngạo, giả hình, ích kỷ, thường là những kẻ được dân chúng tưởng là thánh thiện (x. Mt 23). Ngay cả những kẻ vì yếu đuối mà phạm tội, cho dẫu bị bắt quả tang và bị mọi người lên án, Ngài cũng vẫn không kết án (x. Ga 8,11).

Thái độ khoan dung của Ngài đối với những kẻ tội lỗi làm cho những người tưởng mình là thánh thiện đạo đức kia rất bực mình, vì theo đúng luật Môisê, những kẻ phạm tội như ngoại tình chẳng hạn, đều phải bị kết án chết (x. Lc 20,10; Đnl 22,22-24). Điều đó khiến cho Ngài rất buồn khổ vì ngay cả trong số những người có được nếp sống luân lý cao cũng không có tình thương đối với đồng loại của mình. Khi họ nghĩ rằng họ đã tạm đủ tiêu chuẩn để vào được Thiên Đàng, thì họ muốn rằng những người khác muốn vào được Thiên Đàng cũng phải đạt được tiêu chuẩn ít nhất là như họ. Vào được Thiên Đàng rồi, họ muốn Chúa hạn chế số người vào lại, ai không được như họ thì không được vào.


Nhiều người đạo đức cách ích kỷ, không biết yêu thương

Thái độ đó đã được biểu lộ rất rõ sau khi Ngài chết. Những người Kitô hữu gốc Do Thái đòi hỏi rằng người ngoại muốn vào Kitô giáo để được cứu rỗi thì phải chịu phép cắt bì giống như họ mới được (Cv 15,1). Nếu họ có tình thương đối với đồng loại thực sự, thì họ phải mong Thiên Chúa hạ thấp tiêu chuẩn được cứu rỗi xuống chừng nào tốt chừng nấy, để càng nhiều người được cứu rỗi càng tốt chứ! Đức Kitô đã đả kích thái độ ích kỷ đó qua dụ ngôn chủ vườn nho thuê thợ vào nhiều giờ khác nhau (Mt 20,1-16). Những kẻ «đạo đức» có não trạng ích kỷ đó rất khó chịu trước lòng bao dung vô hạn của Đức Kitô, khiến họ không thể nghe Ngài được, họ chống lại Ngài. Đang khi đó, chính những kẻ tội lỗi bị họ khinh miệt lại nghe theo Ngài, bỏ đường tội lỗi và tin vào Ngài. Vì thế Ngài thẳng thắn nói với họ: «bọn đĩ điếm và thu thuế sẽ vào Thiên Đàng trước các ngươi» (Mt 21,31). Chính những kẻ «đạo đức» muốn đóng cửa Thiên Đàng không cho những người tội lỗi ấy vào (x. Mt 23,13) lại không được vào (x. 23,14). Quan niệm đầy tình thương của Ngài đã làm đảo lộn bậc thang giá trị của xã hội Do Thái giáo thời đó: «Kẻ cuối sẽ lên đầu, kẻ đầu sẽ xuống cuối» (Mt 20,16). Vì thế, cấp lãnh đạo Do Thái giáo liệt Ngài vào hạng người phá hoại tôn giáo và đất nước Do Thái (x. Mt 11,48-50).


Tình thương của Đức Giêsu dành cho người tội lỗi

Tình yêu thương của Thiên Chúa qua Đức Giêsu được biểu lộ rõ rệt nhất nơi tình thương dành cho những người tội lỗi. Bởi Ngài đã từng bị cám dỗ như họ (Mt 4,1-11), và Ngài cũng phải chiến đấu mới thắng được, vì Ngài cũng chia sẻ thân phận yếu hèn như họ. Ngài chỉ khác họ ở chỗ Ngài không bao giờ thua cơn cám dỗ nhờ tình yêu rất mạnh ở nơi Ngài (x. Dt 4,15). Do đó, Ngài cảm thông sâu xa với họ. Vả lại, phân tích cho tới cùng thì kẻ tội lỗi cũng chỉ là những kẻ ngu muội về tâm linh, nên đã hành động ngược lại với hạnh phúc vĩnh cửu là quyền lợi đích thực và cao cả nhất của họ. Mà sự ngu muội đó nào có phải do họ muốn! Ai mà chẳng muốn mình khôn ngoan! Có ai lại cố tình hành động ngược với lợi ích và hạnh phúc của mình! Vì thế, những kẻ cần được nâng đỡ nhất, đáng thương nhất, chính là những kẻ ngu muội này chứ không phải những người khôn ngoan đạo đức kia. Do đó, Đức Kitô luôn lưu tâm và đặc biệt yêu thương những kẻ tội lỗi. Sứ mạng của Ngài là cứu vớt những người đó, họ cũng là con cái của Thiên Chúa. Lập trường của Ngài là: «Kẻ khỏe mạnh đâu cần đến thầy thuốc, chỉ người đau yếu mới cần» (Mt 9,12). Nếu thế giới này toàn là người công chính cả thì Ngài đến trần gian làm gì? Chính những kẻ tội lỗi mới cần Ngài giúp đỡ để thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống. Chủ trương của Ngài rõ rệt: «Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, mà là kêu gọi những người tội lỗi» (Mt 9,13).

Lập trường của Ngài như thế khiến Ngài năng đến với những kẻ tội lỗi vốn bị mọi người khinh chê, giao du thân mật với họ. Không có hạng người tội lỗi nào mà Ngài tránh gặp: từ những cô gái điếm đến những người thu thuế, từ người Samaria đến người Rôma, cả những người què quặt, câm điếc, bệnh tật… Ngài giao du toàn là với những hạng người bị luật pháp Môsê coi là ô uế, không nên lại gần. Ngài đã bất chấp luật Môsê và tục lệ tiền nhân để gần gũi nâng đỡ họ. Ngài không sợ mất uy tín hay danh dự đối với quần chúng cũng như đối với giới lãnh đạo tôn giáo. Ngài không câu nệ gì cả, miễn sao cứu được họ. Đặt mình vào địa vị và thời của Ngài, ta mới thấy được sự hy sinh và lòng can đảm của Ngài đối với hạng tội lỗi lớn biết bao! Ngài làm bạn với họ, và họ coi Ngài như bạn. Đương nhiên Ngài hòa với họ mà không đồng với họ. Nhưng những người tự cho mình là thánh thiện như giới lãnh đạo tôn giáo không thể chấp nhận (x. Lc 8,39), coi Ngài như cùng một giuộc với họ: tội lỗi, tham ăn, say sưa (x. Mt 11,19). Nhờ tinh thần hòa đồng như thế, nhiều người tội lỗi tin Ngài và từ bỏ nếp sống cũ (x. Lc 7,36-50; 19,1-10).

Quan điểm và cách sống của Ngài ngược hẳn lại với giới lãnh đạo tôn giáo, khiến Ngài và họ chống lại nhau. Ngài rất ghét thái độ hợm hĩnh của họ, cứ tự cho mình là công chính để rồi khinh chê kẻ khác. Ngài đã đảo ngược lại cách đánh giá thưòng tình của dân chúng qua chuyện người Biệt Phái và người thu thuế vào đền thờ cầu nguyện: người đạo đức mà lại kiêu ngạo, khinh chê kẻ khác thì trở thành tội lỗi trước mặt Thiên Chúa; còn kẻ tội lỗi biết khiêm nhường nhận lỗi và hối cải thì lại trở thành công chính (x. Lc 18,9-17). Sự đảo ngược giá trị như thế động chạm mạnh đến giới lãnh đạo tôn giáo, khiến họ căm ghét và tìm cách hãm hại Ngài.


Tinh thần «tứ hải giai huynh đệ» của Đức Giêsu

Tinh thần yêu thương rộng mở của Ngài cũng bị giới lãnh đạo tôn giáo chống đối. Đối với Ngài, tất cả mọi người đều là anh em «con cùng một Cha trên trời, Đấng làm mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương» (Mt 5,45). Sự phân biệt bạn và thù, kẻ xấu và người tốt đối với Ngài không quan trọng lắm. Hễ ai là người thì ta phải yêu thương, cho dẫu là kẻ thù hay kẻ bách hại mình (x. Mt 5,44). Nhưng những người đồng thời với Ngài, nhất là những người trong đảng Nhiệt Thành (Zélotes), không thể chấp nhận điều đó. Làm sao người Rôma đang đặt ách thống trị và nô lệ trên họ lại là anh em với họ được? Làm sao dân ngoại thờ thần tượng và những người Do Thái thờ Giavê lại là anh em với nhau được? Làm sao người Samari không thờ Giavê trong cùng một đền thờ với họ lại có thể là anh em với họ được? – Không thể được, một chủ trương cho rằng mọi người đều là anh em phải yêu thương nhau không những không thể chấp nhận được mà còn có hại, vì nó làm tê liệt tinh thần chiến đấu, làm mất đi sự căm thù cần thiết phải có đối với kẻ thù để lật đổ ách thống trị của chúng. Kẻ nào tuyên bố mọi người là anh em, một cách nào đó, là phá hoại tổ quốc. Làm sao người Do Thái có thể nhận Ngài là Đấng Cứu Thế khi họ cho rằng Ngài chủ trương sai lầm như thế. Họ nghĩ Đấng Cứu Thế phải là một «đại bàng» sẵn sàng chiến đấu, làm sao họ chấp nhận được một Đấng Cứu Thế «bồ câu» như thế? – Còn Ngài, Ngài quyết phá đổ mọi bức tường ngăn cách con người với con người, để con người xích lại gần nhau, cộng tác với nhau, yêu thương nhau, coi nhau như anh em, không phân biệt tôn giáo, dân tộc ngôn ngữ, văn hóa… Ngài mong muốn mọi người hiệp nhất với nhau: «Ước gì họ nên một» (Ga 17,21). Nước Thiên Chúa chỉ có thể thực hiện khi không còn thứ biên giới nào ngăn cách con người với nhau nữa.


Sứ mạng canh tân tôn giáo của Đức Giêsu

Đức Giêsu còn gặp rất nhiều khó khăn, đau khổ, bị nhiều người ngộ nhận và chống đối vì Ngài có sứ mạng canh tân tôn giáo, đem lại cho tôn giáo một tinh thần mới, làm một cuộc cách mạng tôn giáo, hay nói đúng hơn là lập một tôn giáo mới. Nhưng thường tình thì cái cũ khó chấp nhận cái mới, đồng thời cái mới đòi hỏi thay đổi cái cũ.

Do Thái giáo là một tôn giáo chân thật được chính Thiên Chúa thiết lập qua các tổ phụ, Môsê và các tiên tri với tất cả vẻ huy hoàng rực rỡ của nó. Nhưng cũng như tất cả mọi sự vật hữu hạn khác bị chi phối bởi luật «thành, trụ, hoại, không», Do Thái giáo cũng bị già cỗi, mất phẩm chất, cần phải được canh tân, cải tổ, và thay đổi. Vả lại, khi con người còn sơ khai về mặt tâm linh cũng như mặt nhận thức, Thiên Chúa mặc khải và huấn luyện con người theo một cách thức phù hợp với trình độ của họ. Nhưng khi con người đã tiến bộ về mặt tâm linh và nhận thức, cách thức cũ không thể phù hợp với con người mới được. Con người phải «lên lớp», phải được mặc khải và huấn luyện cách khác cao hơn. Con người không thể dậm chân tại chổ trong một trình độ mãi được. Do đó, phải có một cuộc cách mạng về giáo lý, luân lý… Phải có những mặc khải mới về Thiên Chúa: Thiên Chúa không phải chỉ là một vị thần đáng sợ đầy quyền năng, mà còn là một người Cha đầy yêu thương, một người bạn chân tình nữa.

Còn tôn giáo cũ, trước hết, là một tôn giáo đầy luật lệ, đặt rất nặng luật pháp. Mục đích của luật pháp là thuần hóa con người, tập cho con người đi đến chỗ yêu thương Thiên Chúa và đồng loại bằng những qui định cụ thể, với những điều phải làm và không được phép làm. Vì con người chưa đủ trình độ tâm linh và trí tuệ để có thể tự động sống phù hợp với tinh thần yêu thương ấy, nên cần phải đưa ra những qui định cụ thể cho từng tình huống của đời sống, đồng thời phải có sự thưởng phạt rõ ràng để giúp họ giữ luật lệ nghiêm chỉnh… Suốt bao nhiêu thế hệ, các tiên tri được Thiên Chúa sai đến để giúp con người càng ngày càng có tinh thần yêu thương hơn khi tuân giữ luật pháp, đồng thời răn đe và sửa phạt những vi phạm luật lệ.


Đả phá tinh thần vị luật trong tôn giáo

Nhưng vẫn có sự khác biệt rõ rệt giữa việc giữ đúng luật lệ và việc yêu thương. Không phải cứ giữ đúng luật lệ thì đã là yêu thương. Người ta có thể giữ đúng luật cách nghiêm nhặt mà tâm hồn họ vẫn chẳng có tình yêu. Do đó, thời gian nhấn mạnh đến việc tuân hành luật pháp phải qua đi, vì xét về mặt giữ luật, người Do Thái thời Đức Giêsu đã đạt tới mức độ tương đối rất cao. Họ giữ luật một cách chi li, và đồng hóa việc giữ luật lệ với sự công chính. Qua Thánh Kinh, Giavê đã khuyên dân Ngài tôn trọng luật pháp: Ai yêu mến, kính sợ Thiên Chúa thì phải tuân hành luật pháp của Ngài, và Ngài sẽ ân thưởng người ấy (x. Xh 15,26; 20,6; 6,2). Tuy nhiên người ta vẫn có thể giữ luật một cách hoàn hảo chỉ vì lợi ích thiêng liêng của họ, vì mong được ân thưởng, được mọi người khen ngợi, ca tụng họ là công chính, chứ không hề có tình thương trong lòng. Do đó, tôn giáo chỉ còn là luật pháp, qui tắc, thói quen, tập tục, nên đã trở thành trống rỗng, chỉ có cái vỏ bên ngoài trông rất đẹp. Vì thế, đạo Do Thái một phần nào đã trở thành một tôn giáo phi tôn giáo, phản tôn giáo.

Để canh tân Do Thái giáo, cần phải đả phá tính duy lề luật, thiếu tình thương của nó. Lề luật giúp con người thực hiện sự công bằng và yêu thương nhưng nó có những giới hạn của nó. Trong đời sống, có nhiều tình huống nếu cứ áp dụng theo đúng luật thì sẽ đi ngược lại tình yêu thương là linh hồn và mục đích của lề luật. Đó là những kẽ hở của lề luật. Đức Giêsu đã lợi dụng ngay những kẽ hở đó để cho những kẻ giữ luật vì lề luật chứ không phải vì tình thương một bài học. Ngài cố tình lỗi luật trong những tình huống đó để làm nổi bật sự quan trọng của tình thương trong việc giữ luật, đồng thời cho thấy yêu thương chính là mục đích của lề luật. Khi nào việc giữ luật đi ngược lại với mục đích của nó là tình thương, thì việc giữ luật lúc đó trở thành «lỗi luật». Còn việc lỗi luật mà lại phù hợp với mục đích của lề luật là tình thương thì trở thành «đúng luật». Lúc đó phải hy sinh lề luật cho tình thương. Đức Giêsu đã cố tình vi phạm luật nghỉ ngày sabát – một khoản luật mà người Do Thái đặt rất nặng – với mục đích trên: để các môn đệ bứt lúa ăn (x. Mt 12,1-8), chữa người bại tay (x. 12,9-14), chữa người đau ốm ở hồ Bếtđatha (x. Ga 5,1-18), chữa người mù từ thuở mới sinh (Ga 9,1-34). Và còn nhiều loại vi phạm khác.

Nhưng người Do Thái chưa hiểu được sự đúng đắn và hợp lý của Ngài. Theo truyền thống, họ bám vào luật pháp, coi đó như cốt lõi của công chính và thánh thiện. Yêu thương chưa có một chỗ đứng vững chắc và quan trọng trong quan niệm của họ. Vì thế, làm sao họ chấp nhận được quan niệm đặt nặng yêu thương hơn cả lề luật, coi lề luật chỉ là một phương tiện thể hiện tình yêu thương? Đang khi trong tư tưởng của Đức Giêsu, Ngài cho rằng toàn bộ lề luật đứa con tóm gọn trong hai điều căn bản: yêu Chúa hết lòng và yêu người như chính mình (x. Đnl 6,5; Lv19, 18; Mt 22,37-40). Đó là cốt tủy của lề luật, không có cốt tủy ấy thì việc giữ luật trở thành vô giá trị trước Thiên Chúa, vì Thiên Chúa chỉ «muốn tình yêu chứ không muốn lễ vật» (Hs 6,6): chỉ có tình yêu mới có giá trị. Vì nếu đã có tình yêu thì chẳng cần phải có lề luật nào cả, vì tự bản chất lề luật đâu phải để dành cho những người có tình yêu, mà chỉ dành cho những ai không có tình yêu (x. lTm 1,9-10).

Đối với Đức Giêsu, hai giới răn yêu thương ấy chỉ là một, vì người ta không thể yêu mến Thiên Chúa đích thực khi họ không yêu thương tha nhân, và cũng không thể yêu mến tha nhân đích thực khi không yêu mến Thiên Chúa. Vì thế, Ngài tóm gọn hai giới răn đó thành một, và gọi giới răn duy nhất đó là «điều răn mới» của Ngài: «Ta cho các con một điều răn mới là hãy yêu thương nhau», không phải chỉ «như chính mình» mà «như Ta yêu thương các con» (Ga 13,34). Giới răn yêu Thiên Chúa đã bao hàm trong giới răn yêu tha nhân, vì ai yêu tha nhân như Đức Kitô yêu thương họ, thì người ấy đã yêu Thiên Chúa đúng nghĩa rồi. Về sau, Thánh Phaolô xác nhận điều đó: «Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» (Gl 5,14), và «Ai yêu tha nhân là đã thi hành trọn vẹn lề luật» (Rm 13,8. 10).

Như vậy, khi tiến đến được lên một trình độ tâm linh cao hơn, lề luật mất hẳn sự quan trọng của nó, và thay vào đó là tình yêu thương. Bộ luật Torah là cốt tủy cho Do Thái giáo gồm hàng mấy trăm điều bỗng mất đi địa vị tối thượng của nó, điều đó làm sao các Rabbi Do Thái có thể chấp nhận được? Do đó, họ chống lại Ngài, cho Ngài là kẻ phá hoại tôn giáo cần phải loại trừ như một kẻ nguy hiểm (x. Mt 11,48-50). Họ phản đối và chống lại Ngài như thế là diều dễ hiểu, vì chủ trương của Ngài vượt khỏi tầm nhận thức và hiểu biết của họ quá xa, và những nhận thức cũ của họ đã cản trở họ có được những nhận thức mới. Cứ xem trong Kitô giáo thì hiểu được Do Thái giáo thời xưa: ngày nay, nếu có ai tư tưởng khác với truyền thống, hay ngược lại truyền thống thì chúng ta sẵn sàng kết án họ là rối đạo mà không cần phải suy xét gì cho sâu xa, và có thể đi đến tẩy chay họ nữa!

Đức Giêsu là tiên tri lớn nhất trong tất cả các tiên tri từ trước đến nay. Chính vì sứ mạng tiên tri đó mà Ngài phải đau khổ và cô độc giữa một xã hội không nhận ra chân lý của Thiên Chúa, để rồi bị chính đồng đạo của mình ám hại và giết chết. Số phận của tất cả các tiên tri đích thật do Thiên Chúa sai đến đều giống nhau: bị ngược đãi và bị giết (Mt 23,30-31; 5,12). Cũng như và còn hơn các tiên tri khác, Ngài chính là «tôi trung đau khổ của Thiên Chúa» được Isaia diễn tả (Is 52,13-53,12): bị khinh bỉ, chán ghét, bệnh hoạn, bị roi vọt, thương tích, bị hiếp đáp, xử đoán bất công, bị kể vào hàng tội lỗi, bị tưởng rằng Thiên Chúa trừng phạt… nhưng tại sao Ngài lại bị đau khổ và bạc đãi? Dân Do Thái đã chẳng khao khát trông mong Ngài đến hàng ngàn năm trước sao? Tại sao chính những kẻ trông mong Ngài đến lại bạc đãi và giết chết Ngài?


Nỗi đau khổ của các ngôn sứ

Ngôn sứ là những người được Thiên Chúa chọn để thay Ngài nói với trần gian. Chính Thiên Chúa dùng miệng các ngôn sứ để nói với con người. Họ là những người có những kinh nghiệm hay cảm nghiệm trực tiếp về Thiên Chúa. Họ nhận những sứ điệp của Thiên Chúa qua nhiều cách: bằng thị kiến (Is 6; Ed 1.2.8; Đn 8-12) đặc biệt là những thị kiến ban đêm (Ds 12,6; Đn 7), hay bằng tiếng nói từ trong tâm trí, nhưng thường là bằng sự linh ứng thần linh ở bên trong. Họ nhận những sứ điệp đó không qua sách vở hay Kinh Thánh, không qua lời giảng dạy của người khác, cũng không do suy niệm cá nhân. Do đó, những điều họ nói ra thường là những điều mới mẻ, là những quan niệm thường chỉ phù hợp với tương lai, có thể chưa từng có sách vở nào viết ra. Có như thế họ mới đúng là «tiên tri» đích thực, vì «tiên tri» nghĩa là biết trước, thấy trước. Là «tiên tri» mà chỉ nói những điều ai cũng biết thì đâu còn là «tiên tri» nữa!

Lời họ nói ra với dân là lời của Thiên Chúa: «Ta đặt lời Ta trong miệng con» (Gr 1,9), đến nỗi sau khi họ nói, họ có thể bắt đầu hay kết thúc bằng công thức: «Đây/đó là lời của Đức Chúa» (x. Is 45,18; Dc 4,14), «Hãy nghe lời của Đức Chúa» (Gs 3,9; 2V 7,1; 2V 20,16; Is 28,14) «Đức Chúa các đạo binh phán thế này/như thế» (x. 1Sm 15,2; 1Sb 17,7; Is 45,13; Gr 6,6; Kg 1,2)… Thật khác hẳn với lời của các giáo sĩ trong Do Thái giáo cũng như trong Kitô giáo.

Các ngôn sứ được Thiên Chúa chọn đích danh, thường không thuộc phẩm trật tư tế, lêvi, hay trong giới lãnh đạo tôn giáo hoặc giáo sĩ, trước cũng như sau khi được chọn. Cho dẫu có thuộc dòng dõi tư tế như Giêrêmia hay Gioan Tẩy giả, họ cũng có thể không làm tư tế. Tuy nhiên cũng có những ngôn sứ đồng thời là tư tế như Êdêkien… Vì thế, có thể nói họ nói năng tương đối độc lập với giáo huấn của giáo sĩ; họ được kêu gọi và nhận sứ điệp của Thiên Chúa không qua hệ thống của giới lãnh đạo tôn giáo. Nếu nói theo ngôn ngữ thời đại thì họ thường thuộc giới «giáo dân» hơn là «tu sĩ» hay «giáo sĩ». Đức Kitô cũng như các tông đồ cũng đều như vậy. Chính vì thế, người đương thời nhiều khi không biết họ là các ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến. Thông thường, chỉ khi họ chết đi – thường là bị giết vì nói ngược lại với quan niệm hoặc lòng mong ước của dân chúng – và một thời gian sau người ta mới nhận ra họ là các ngôn sứ của Thiên Chúa, vì thấy những lời họ tiên báo đều ứng nghiệm, và những giáo huấn của họ hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Kinh Thánh (x. Gr 28,9; Đnl 18,22; Gr 23,2; Đnl 13,2-6). Lúc đó thì đã quá muộn, họ đã bị các vua chúa, hoặc giới lãnh đạo tôn giáo và dân chúng hùa theo giết chết.

Số phận các ngôn sứ là như thế. Gọi họ là «tiên tri» (nghĩa là biết trước) thì thật là đúng. Vì họ là những người nhận được từ Thiên Chúa những quan niệm mới, tiến bộ, đúng đắn và phù hợp với tương lai hơn quan niệm của người đương thời. Họ là những người khám phá và đưa ra những giá trị mới, những giá trị mà người đương thời ít ai nhận ra là giá trị. (Đương nhiên không phải ai có đặc tính biết trước, thấy trước, đưa ra những quan niệm mới đúng đắn, phù hợp với thời đại cũng đều là tiên tri, nhưng đã là tiên tri thì phải có đặc tính ấy). Đang khi giới lãnh đạo tôn giáo là những người chủ trương bảo vệ những giá trị đã tìm được, những giá trị mà ai cũng nhận là giá trị. Vì thế họ thường được dân chúng tôn trọng và ưu đãi. Nhờ đó họ có nhiều uy tín và thế lực. Khi các ngôn sứ đưa ra những quan niệm mới, những giá trị mới để hướng dẫn con người đi vào con đường mới của Thánh Thần, Đấng luôn luôn «đổi mới mặt địa cầu» (Tv 104,30; x. Kn 7,27; Ep 4,23; Kh 21,5), thì giới lãnh đạo tôn giáo chưa nhận ra được đó là những giá trị mới, những định thức mới của chân lý và cũng là ý của Thiên Chúa. Họ chỉ thấy những quan niệm mới, những giá trị mới ấy đi ngược lại với những quan niệm cũ mà họ coi là chân lý, với những giá trị cũ mà họ cho là vĩnh cửu. Thế là họ kết án các ngôn sứ là những kẻ phá hoại, như trường hợp của Đức Giêsu mà chúng ta đã thấy ở trên. Và sẵn quyền bính trong tay, họ kết án và giết chết các ngôn sứ một cách vô tội vạ, «tưởng rằng làm như thế là phụng thờ Thiên Chúa» (Ga 16,2).

Khi những quan niệm mới của các ngôn sứ đã được thế hệ sau nhận ra là chân lý, thì những quan niệm mới lúc ấy đã trở thành cũ, và được giới lãnh đạo tôn giáo các thế hệ sau bảo vệ. Nhưng chính giới lãnh đạo tôn giáo này sẽ lại giết các ngôn sứ đồng thời với mình nhân danh những giá trị họ đang bảo vệ. Cứ như thế hết thế hệ ngôn sứ này đến thế hệ ngôn sứ khác, không có ngôn sứ đích thực nào mà không bị bách hại, bạc đãi, thậm chí bị giết chết (x. Mt 5,12b; 23,30). Chính Đức Giêsu đã nói lên số phận bi đát đó của các ngôn sứ từ thế hệ này sang thế hệ khác, được lập đi lập lại như một định luật của lịch sử Do Thái giáo: «Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! các người xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho những người công chính. Các người nói, “nếu như chúng ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các ngài mà đổ máu các ngôn sứ”. Như vậy các người tự làm chứng rằng các người đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ. Chính các người đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên các người đấy! » (Mt 23,29-32). Thế hệ này thì tôn vinh các ngôn sứ của các thế hệ trước nhưng lại vùi dập và loại trừ các ngôn sứ của chính thế hệ mình! Liệu những người đang tôn thờ Đức Giêsu, đang căm thù giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã bạc đãi giết chết Ngài, có đi vào vết xe cũ của người xưa không? Liệu những ngôn sứ của thời đại mới, của Kitô giáo có được may mắn hơn các ngôn sứ thời đại cũ chăng? Lời tiên báo của Đức Kitô chắc hẳn khó mà sai được: «Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em» (Ga 15,20), «Họ sẽ khai trừ anh em ra khỏi hội đường. Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng đó là phụng thờ Thiên Chúa. Họ sẽ làm như thế vì họ không biết Chúa Cha cũng chẳng biết Thầy» (16,2-3). Liệu giới lãnh đạo tôn giáo ngày nay có sáng suốt hơn giới lãnh đạo tôn giáo ngày xưa chăng? Có rút ra được bài học nào từ lịch sử chăng?


Nỗi đau khổ và số phận ngôn sứ của Đức Giêsu

Cũng như tất cả mọi ngôn sứ đích thực của Thiên Chúa, Đức Giêsu cũng phải nói lên những sai sót, những lầm lỗi của dân chúng cũng như của mọi giới, dù là vua chúa hay giới lãnh đạo tôn giáo. Đối với dân chúng hay đối với những người tội lỗi, Ngài tỏ ra rất khoan dung, dịu dàng, vì họ thường có một thái độ khiêm nhượng, cảm thông, vả lại họ thường dốt nát, ít học. Nhưng đối với giới lãnh đạo tôn giáo, với những người Pharisêu, các rabbi Do Thái, Ngài tỏ ra rất cứng rắn trước thái độ kiêu căng, giả hình, vị lợi, ích kỷ, thiếu tình thương và vị luật của họ. Ngài không phải là một «con chiên ngoan đạo» lúc nào cũng thấy những người lãnh đạo của mình là đúng, là gương mẫu, mà Ngài là một ngôn sứ, lúc nào cũng thấu suốt lòng dạ của họ và thấy được những sai lầm của họ. Đương nhiên Ngài phải lên tiếng.

Đọc Tin Mừng Mátthêu, chương 23, ta thấy Ngài nói «cạn tàu ráo máng» với họ. Khó có thể tìm thấy những lời lẽ thậm tệ hơn của Ngài với những giới khác trong dân. Giới này là giới khó lãnh hội chân lý nhất, mặc dù họ hiểu biết nhất, họ thông thạo Kinh Thánh và luật pháp nhất. Họ cũng là giới gây khó khăn cho công việc rao giảng Tin Mừng của Ngài nhất. Chính giới này đã âm mưu lên án và giết Ngài trên Thập Giá. Và đám «con chiên ngoan đạo» của họ đã hùa theo họ.

Trước hết, Ngài tố cáo họ và gọi họ là những kẻ giả hình, bề ngoài thì rất nhân nghĩa, đạo hạnh, nhưng trong tâm hồn thì đầy xấu xa, đê tiện, bỉ ổi, với những tư tưởng ghen ghét, hại người. Họ «giống như những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì đẹp lắm, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế» (Mt 23,27).

Ngài tố cáo họ là những người nói thì thật hay nhưng không chịu thực hành điều mình nói (c. 3). Họ hùng hồn khuyên người khác hãy hy sinh cho nhau, hy sinh cho tôn giáo, cho đại cuộc, nhưng chính họ lại «không buồn động ngón tay vào» (c. 4) Tuy vậy, họ lại thích được ca tụng, tôn trọng, thích mặc những loại áo khác hẳn người thường để ai cũng có thể phân biệt họ với những người khác mà kính trọng ưu đãi họ (c. 5-6). Họ thích được gọi bằng «thầy», bằng «rabbi» (c. 7). Họ khéo lợi dụng lòng tin, lòng sùng đạo và nhẹ dạ của những «con chiên ngoan đạo» để «nuốt hết tài sản» của họ (c. 14). Họ thích những hành vi tỏ ra mình là người đạo đức thánh thiện như rửa tay, lau sạch chén đĩa… (c. 25).

Nhưng những điều ấy không quan trọng bằng sự kiện họ là «những người dẫn đường mù quáng» (c. 24), là «những người mù dẫn dắt người mù» (Mt 15,14), khiến những người nghe họ rao giảng cũng bị sai lạc đường nẻo của Chúa. Họ không phải là những người bận tâm hay khắc khoải về chân lý, nên tư tưởng của họ dễ bị lệch lạc, nhưng họ lại có nhiệm vụ chỉ dạy cho người khác. Họ đã đảo lộn những bậc thang giá trị hợp lý: lấy cái chính làm phụ, lấy phụ làm chính, cái quan trọng thì đặt nhẹ, cái chẳng là gì thì đặt nặng, cái quan trọng nhất trong lề luật là chân lý, công lý và tình thương thì chẳng lưu tâm mà cứ để ý tới những chuyện bì phu như «nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng» (c. 23). Họ dạy: «Ai chỉ vàng trong đền thờ mà thề thì bị ràng buộc, còn chỉ chính đền thờ thề thì không sao» (c. 16), đang khi chính đền thờ mới làm cho vàng trở nên giá trị (c. 17)… Nhìn thấy Đạo Thánh mà Cha Ngài đã lập nên đang bị méo mó bởi những giảng dạy sai lệch như thế, làm sao Ngài tránh khỏi chua xót?

Trong Dân Ngài, có biết bao nhiêu chuyện trái tai gai mắt, nhất là nơi những người lãnh đạo là những người có trách nhiệm cao nhất. Quan niệm của Ngài và của họ, cuộc sống sống của Ngài và của họ, đường lối của Ngài và của họ luôn luôn đối nghịch nhau. Chắc chắn Ngài cũng bị cám dỗ để mặc họ như vậy cho yên thân mình. Nhưng nếu như vậy thì Ngài đến trần gian để làm gì? Nếu Ngài không sửa đổi họ thì còn ai sửa đổi nữa? Các ngôn sứ trước đây người nào mà chẳng muốn sống an thân, có người nào muốn động chạm đến những kẻ có quyền để phải chết oan ức đâu? Ngôn sứ Giona đã cố tình trốn không muốn nói lên tội ác của thành Ninivê, mà nào có trốn được (x. Gn 1,1-15) ? Đã được Thiên Chúa kêu gọi thì chỉ có nước làm theo ý của Ngài, huống gì Đức Giêsu chính là Con của Ngài! Vì thế, Ngài phải dấn thân, phải chiến đấu, phải nói cho những người lãnh đạo Dân Chúa biết những tội lỗi và sai trái của họ, nếu không thì hóa ra Ngài là kẻ đào nhiệm! Thế là Ngài và giới lãnh đạo tôn giáo chống đối nhau kịch liệt, để cuối cùng Ngài bị họ giết chết trên Thập Giá.

Thế là từ lúc sinh ra đến cuối cuộc đời, Ngài luôn luôn bị dân Ngài hất hủi, tẩy chay, cho dù Ngài chính là hiện thân của Giavê Thiên Chúa, Đấng mà họ tôn thờ, cho dù Ngài yêu thương dân Ngài hết tình. Đó chính là nỗi khổ tâm của Ngài mà chúng ta có thể hiểu và thấy được. Nỗi khổ tâm của Đức Giêsu chính là những nét phác họa giúp ta hiểu được nỗi khổ tâm vô biên của Thiên Chúa trước sự sa đọa và đau khổ của con người. Tìm hiểu ý nghĩa sự đau khổ của Đức Giêsu ta sẽ hiểu được nỗi đau khổ của Thiên Chúa để nhờ đó nhận ra tình yêu vô biên của Ngài. Nỗi đau khổ của Đức Giêsu đã được cô đọng lại và diễn tả rõ nét nhất trong hai lần hấp hối của Ngài, lần thứ nhất tại vườn Giệtsê, và lần thứ hai trên thánh giá.


Nỗi đau khổ của Đức Giêsu lúc hấp hối trong vườn Giệtsêmani


Cô độc, có cảm tưởng bị bỏ rơi

Nỗi cô độc trong suốt cuộc đời Ngài được thể hiện rõ nét nhất lúc Ngài hấp hối trong vườn Giệtsê: Ngài cảm thấy cô đơn và cô độc hơn bao giờ hết. Trong bữa tiệc ly, Ngài đã báo cho các môn đệ biết Ngài sắp bị bắt và bị giết. Nhưng các ông tỏ ra rất thờ ơ, không ai lo lắng hay buồn rầu cho số phận Thầy mình cả. Các ông vẫn vô tình hết sức, họ còn «cãi nhau sôi nổi xem ai trong nhóm được coi là lớn nhất» (Lc 22,24). Còn Ngài, ngoài việc lo lắng vì những đau khổ tột cùng sắp xảy đến mà Ngài biết trước, Ngài còn đau khổ vì biết Giuđa sẽ phản bội, và các môn đệ khác sẽ bỏ rơi Ngài, hoàn toàn phó mặc số phận Ngài trong tay kẻ ác. Ngài đưa ba môn đệ thân yêu nhất vào vườn Giệtsê để cùng thông cảm và chia sẻ nỗi lo lắng buồn phiền của mình, nhưng cả ba ông bỏ mặc Ngài một mình và ngủ như chết.

Các môn đệ bỏ Ngài đã đành, mà cả Cha trên trời dường như cũng bỏ rơi Ngài luôn. Và đó chính là cao điểm của cô đơn và đau khổ của Ngài. Thiên Chúa hoàn toàn im lặng, hờ hững trước nỗi lo lắng, sự cô đơn, nỗi sợ hãi và đau khổ tột cùng của Ngài. Ngài cảm thấy hoàn toàn cô độc. Trong cuộc chiến đấu cam go này, Ngài hoàn toàn một mình. Trong cả cuộc đời Ngài, chưa bao giờ Ngài cảm thấy buồn phiền, sầu não như bây giờ. Sức phấn đấu của Ngài bình thường rất mạnh, bây giờ dường như biến đi đâu mất. Chưa bao giờ Ngài cảm thấy yếu đuối như bây giờ. Bản tính Thiên Chúa của Ngài dường như không còn nữa, chỉ còn lại bản tính người.


Thông cảm với bản tính yếu đuối của con người và muốn tha thứ tất cả

Trước nỗi đau đớn kinh khủng và kéo dài sắp xảy đến, Ngài thoáng có ý tưởng chạy trốn, ý tưởng đó phát xuất từ bản tính người của Ngài. Ngài biết đó là hèn nhát nhưng sao ý tưởng đó cứ trở đi trở lại hoài. Chưa bao giờ Ngài cảm thấy mình «người» như lúc này, và Ngài cảm thấy thông cảm sâu xa với sự yếu hèn của con người hơn bao giờ hết. Tội nguyên tổ và tội riêng của từng người đã làm cho con người trở nên yếu đuối y như Ngài đang cảm nghiệm bây giờ. Những người tội lỗi là những người yếu đuối nhất về mặt tâm linh, có yếu đuối như họ mới hiểu được và thông cảm với tội lỗi của họ. Họ đáng thương nhiều hơn đáng trách. Xin Chúa Cha tha thứ cho họ!

Khi đi rao giảng, Ngài cảm thấy tinh thần làm cho Ngài nhanh nhẹn phấn chấn bao nhiêu, thì bây giờ Ngài đang cảm thấy xác thịt làm cho Ngài nặng nề trì trệ bấy nhiêu. Ngài cảm thấy thông cảm sâu xa với ba môn đệ yêu dấu đang bị cơn buồn ngủ vì say rượu (rượu tiệc ly), và sự mệt mỏi đã làm cho họ trở nên hờ hững với nỗi đau khổ và cô đơn tột cùng của Thầy mình. Ngài đã cảm nghiệm sâu sắc sự yếu đuối của thân xác đến nỗi phải thốt lên: «Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn» (Mt 26,41). Ngài thông cảm sâu xa với Giuđa đã bán Ngài vì nhẹ dạ tưởng rằng Ngài sẽ dùng quyền năng để tự cứu và nhân đó đó sẽ giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của Rôma.

Ngài cũng thông cảm với giới lãnh đạo tôn giáo, vì quyền lợi bản thân, vì cố chấp và kém trí tuệ, nên đã không hiểu Ngài và chủ mưu hại Ngài. Họ hại Ngài một phần vì Ngài đã từng tố cáo tội lỗi của họ khiến họ bị mất uy tín trước mặt dân chúng (x. Mt 23), phần khác vì Ngài đang bị họ coi là kẻ phá hoại tôn giáo mà họ cảm thấy có nhiệm vụ phải bảo vệ. Họ giết Ngài nhưng họ vẫn tưởng làm như thế chính là phụng thờ Thiên Chúa (x. Ga 16,2).

Ngài thông cảm với tất cả mọi người và tha thứ cho họ hoàn toàn. Cảm nghiệm sâu xa tình trạng yếu đuối của con người, Ngài cảm thấy dường như không ai cố tình chống lại Thiên Chúa hay muốn làm hại anh em đồng loại cả. Nếu có, chỉ là do yếu đuối, ngu muội hay cố chấp; mà có ai muốn mình yếu đuối, ngu muội hay cố chấp đâu! Ngài cũng mong muốn và xin Chúa Cha tha thứ cho họ.


Nỗi sợ hãi vì biết trước những đau khổ tột cùng sắp phải chịu

Sự sáng suốt khiến Ngài thấy rõ tất cả những cực hình đang chờ đón Ngài. Ngài đang cảm nghiệm được rõ rệt sự đau đớn vì roi vọt, vì mũ gai, vì chịu đóng đinh vào Thập Giá, cùng với tất cả mọi sỉ nhục nhạo báng. Ngài thấy trước tất cả và Ngài rùng mình run sợ. Ngài cảm thấy hoàn toàn kiệt sức, mồ hôi Ngài vã ra lẫn với máu. Trong lúc cảm nghiệm trước những nỗi đau đớn ấy, Ngài sợ hãi tới mức độ một vài mạch máu nhỏ vì quá căng thẳng đã bị bể khiến máu thấm ra ngoài da cùng với mồ hôi (x. Lc 22,44).


Bị cám dỗ đào nhiệm để khỏi đau khổ

Cho tới lúc này, Ngài vẫn có thể từ chối không nhận chịu những cực hình đó, Ngài vẫn hoàn toàn tự do để chịu hay không chịu. Chính sự tự do này làm cho Ngài phải chiến đấu. Mọi cám dỗ đều xuất phát từ cái tự do này. Tội lỗi hay thánh thiện đều vì cái tự do này mà phát sinh. Không có tự do thì chẳng thể có thánh thiện mà cũng chẳng hề có tội lỗi, và cũng chẳng có vấn đề trách nhiệm.

Tư tưởng của Ngài đang là một bãi chiến trường: một bên là bản tính Thiên Chúa lúc này đang bị mờ nhạt đi rất nhiều cơ hồ như mất hẳn; bên kia là bản tính con người với tất cả sự nặng nề yếu đuối của nó, một sự yếu đuối rất mạnh mẽ không dễ gì thắng được. Một bên là tinh thần rất nhanh lẹ chóng vánh, bên kia là xác thịt ù lì chậm chạp. Một bên là tình yêu, bên kia là khuynh hướng vị kỷ của bản tính con người. Một bên là ý muốn của Thiên Chúa, bên kia là ý muốn của riêng Ngài. Ngài muốn ý của Thiên Chúa thắng thế, nhưng sao lúc này ý của Thiên Chúa nơi Ngài mờ nhạt quá, mà ý của Ngài sao mạnh quá, rõ rệt quá! Ngài đang có ý tưởng muốn đào nhiệm, từ chối chén đắng mà Thiên Chúa Cha muốn Ngài uống cho cạn. Ngài đã phải thốt lên với Chúa Cha: «Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này» (Mt 26,39.42.44). Muốn ý của Thiên Chúa thắng không đủ, còn phải chiến đấu chống lại ý muốn của mình nữa. Ngài đã phải chiến đấu kịch liệt với chính bản thân, và cuối cùng Ngài đã thắng: «Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha» (nt).

Tự do là con dao hai lưỡi. Nhưng muốn dùng lưỡi dao tốt thì lòng mong muốn suông không đủ, phải có sức mạnh để cụp cái lưỡi dao xấu lại và kéo cái lưỡi dao tốt ra. Lưỡi xấu lúc nào cũng muốn bật ra chẳng phải dùng sức để kéo, còn lưỡi tốt thì phải dùng sức kéo mới ra được. Đó chính là thảm trạng của con người. Cần phải có sức mạnh mới làm theo ý Thiên Chúa được, chứ chỉ một mình thiện chí thì không đủ. Ai cũng đều muốn làm điều tốt cả, nhưng họ có làm nổi đâu! Và đâu có ai muốn mình làm điều xấu, ác, nhưng sao họ vẫn cứ làm? Điều ác hấp dẫn quá, ý chí yếu đuối của nhiều người không đủ sức chống cự. Nếu Thiên Chúa không tiếp sức mạnh cho con người, làm sao họ làm theo ý Ngài được? Nhưng làm sao Thiên Chúa có thể tiếp sức cho con người được nếu họ không muốn điều đó, vì Ngài phải tôn trọng tự do của họ? Nhiều khi con người bị một đam mê nào đó lôi cuốn quá mạnh, khiến họ không còn muốn làm một số điều tốt mà lại muốn làm một số điều xấu.

Cơn cám dỗ cuối cùng này của Ngài giúp Ngài hiểu và thông cảm với con người hơn bao giờ hết. Tất cả những lý thuyết hay đến đâu cũng không thể thực hiện được nếu không có sức mạnh để thực hiện. Ngài cảm thấy con người đáng thương quá! Thiên Chúa cần phải cảm thông với sự yếu đuối cũng như sự ngu muội ngông cuồng của họ. Con người có tự do, nhưng con người không có đủ sáng suốt và sức mạnh để sử dụng tự do đó đúng theo ý muốn của Thiên Chúa. Xét cho cùng thì mọi tội lỗi của họ đều do họ ngu muội thiếu sáng suốt mà ra, cho dẫu họ có cố tình và cảm thấy như hoàn toàn tỉnh táo lúc họ quyết định phạm tội. Đâu phải Thiên Chúa không ban cho con người khôn ngoan sáng suốt, nhưng sự sáng suốt đó tổ tông con người đã đánh mất vì kiêu ngạo không muốn phục tùng Thiên Chúa. Dẫu vậy, Thiên Chúa vẫn thông cảm với con người nên đã có kế hoạch cứu chuộc. Và chính vì kế hoạch này mà Ngài đến với con người. Và bây giờ là thời điểm mấu chốt quyết định cho sự cứu chuộc ấy.


Tình thương đối với con người đã thắng sự sợ hãi và yếu đuối

Sự cảm thông với con người làm cho tình yêu của Ngài đối với họ bỗng trở nên mãnh liệt hơn bao giờ hết, tình yêu đó đã trở thành sức mạnh có tác dụng như một thiên thần từ trời xuống an ủi nâng đỡ Ngài. Thế là tình yêu đã thắng, cuộc chiến đã kết thúc. Ngài cảm thấy hăng hái chấp nhận tất cả những gì khủng khiếp nhất đang chờ đợi Ngài vì yêu thương con người. Thì ra tình yêu là sức mạnh, một sức mạnh kinh khủng. Thì ra con người yếu đuối là vì con người thiếu tình yêu, con người không chạy đến với tình yêu. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chính tình yêu làm con người thành thánh thiện, mạnh mẽ, làm cho con người sáng suốt. Tình yêu chính là chìa khóa thần diệu cứu con người, giải thoát con người khỏi tội lỗi và đau khổ. Mọi tội lỗi đều phát sinh từ sự thiếu tình yêu. Ngay cả sự ngu muội cũng phát xuất từ sự thiếu tình yêu.

Tình yêu, hay nói đúng hơn ý tưởng về tình yêu đã giúp Ngài thắng và ra khỏi cơn cám dỗ kinh khủng, và làm Ngài bình tĩnh, can đảm trở lại. Và bây giờ, Ngài đang bình thản đón chờ bọn lính của giới lãnh đạo tôn giáo cùng Giuđa đến bắt Ngài. Tình yêu đã giúp Ngài chịu đựng được tất cả những đau khổ trong suốt cuộc hành trình khổ nạn, từ dinh Philatô, và cuối cùng đến núi Sọ, nơi Ngài bị hành quyết.

Thế là nơi Thiên Chúa, Tình Yêu lại hòa giải được với Công Bình! Những đòi hỏi của tình yêu đã hóa giải được những đòi hỏi của công bình! Khi nhập thể làm một con người yếu đuối như tất cả mọi người, Ngôi Hai Thiên Chúa đã cảm nghiệm sự yếu đuối và khốn nạn của con người, và Ngài thông cảm với họ hơn bao giờ hết. Sự thông cảm này làm cho tình yêu của Ngài dành cho con người vốn đã dào dạt và mãnh liệt lại càng dào dạt và mãnh liệt hơn. Và chính tình yêu đó đã thúc đẩy Đức Giêsu vui vẻ và tự nguyện chấp nhận những đau khổ kinh khiếp và cái chết vô cùng nhục nhã. Đó là cái giá mà sự Công Bình của Thiên Chúa đòi hỏi Tình Yêu của Ngài phải trả để sự Công Bình ấy được thỏa mãn. Nhờ đó cả Công Bình lẫn Tình Yêu của Thiên Chúa đều được thỏa mãn. Tình Yêu ấy, thánh Gioan đã viết rất đúng: «Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng» (Ga 13,1).


Cơn hấp hối trên thập giá

Đau khổ và nhục nhã cùng cực

Tình yêu và nỗi đau khổ của Thiên Chúa còn được biểu hiện một cách cụ thể và cảm động qua cơn hấp hối thứ hai của Đức Giêsu Kitô… Ngài đang bị treo trên Thánh giá, không một tấm vải che thân trước vô số người hiếu kỳ đang nhìn lên bình luận, chỉ trỏ, nhạo báng. Chưa bao giờ Ngài thấy xấu hổ và nhục nhã như vậy, cho dẫu trong những giờ bị hành hạ vừa qua, Ngài đã chịu đủ mọi cực hình và nhục nhã, và hiện nay những vết thương ở cổ tay và bàn chân Ngài do bị đóng đinh đang làm cho Ngài nhức nhối ghê gớm. Chính trong tình trạng này, Ngài cảm nghiệm được sự nhục nhã cùng tột mà con người có thể dành cho nhau, đặc biệt cho những đối tượng mình thù ghét. Với Ngài, sự nhục nhã này còn làm Ngài đau khổ hơn cả những vết thương trên khắp thân thể hiện đang hành hạ Ngài. Thà chịu đau đớn gấp đôi còn hơn phải trần truồng trước cả một đám đông đang nhạo báng như thế. Thế là Ngài đã thực hiện được sự nghèo khổ cùng tột của con người để chuộc lại vô số tội lỗi mà con người đã gây ra do lòng ham muốn danh vọng, giàu sang, quyền lực và những vui thú từ những thứ này đem lại.

Trong lúc cô đơn, nhục nhã và đau khổ cùng tột ấy, cũng may mà còn một vài người thân của Ngài đang hiện diện để cùng cảm thông và chia sẻ. Dưới chân thập giá có Mẹ Ngài cùng một số phụ nữ thân quen và Gioan đang giả dạng thành một người khác. Còn các môn đệ khác mà Ngài cũng yêu thương vô bờ bến đều trốn biệt. Chính lúc nếm trọn sự đau khổ cùng tột mà thế gian có thể dành cho một con người, Ngài thông cảm hơn bao giờ hết sự yếu đuối, sự hèn nhát vì sự sợ hãi và sự trốn chạy trước đau khổ của mọi người. Đau khổ quả rất đáng sợ, vì nhiều khi nó thật khủng khiếp! Chính Ngài đã cảm nghiệm vô cùng sâu xa nỗi sợ hãi đó khi ở trong vườn Giệtsê tối hôm trước. Vì thế, Ngài thông cảm và muốn tha thứ hết cho các môn đệ của Ngài về những hèn nhát và bội phản của họ.


Tình thương và sự đau khổ của Thiên Chúa còn được biểu lộ một cách sâu sắc qua 7 lời nói sau cùng của Đức Giêsu trên thập giá.

-- Lời nói đầu tiên của Đức Giêsu trên thập giá: tha thứ và hứa thiên đàng cho người trộm lành

Đang khi tất cả mọi người bên dưới cười nhạo Ngài thì một trong hai tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Ngài tỏ ý hối hận và nhìn nhận tội lỗi mình, đồng thời xưng rằng Ngài vô tội và xin Ngài thương anh ta (x. Lc 23,42). Lời nhận lỗi và cầu xin tha thứ của người trộm lành như một cơn mưa rào mát mẻ tưới xuống mảnh đất đang nóng rực và khô cằn của tâm hồn Ngài. Ngài lập tức nhớ lại dụ ngôn con chiên bị lạc (x. Lc 15,4-7), dụ ngôn đồng bạc bị mất (x. Lc 15,8-10) và nhất là dụ ngôn người cha nhân từ tha thứ cho đứa con hoang đàng từ xa trở về (x. Lc 15,11-32) mà Ngài đã từng nói với dân chúng. Lúc này Ngài đang đóng vai người cha, và anh trộm lành kia đóng vai người con hoang đàng.

Chỉ trong một giây, Ngài thấu hiểu hết những tình huống đã thúc đẩy anh vào con đường tội lỗi, nỗi đau khổ dằn vặt của anh khi hoàn cảnh éo le đã khiến anh cứ phải tiếp tục con đường tội lỗi ấy cho đến khi bị bắt, và nhất là bây giờ sự hối hận đang dày vò tâm can anh trong cơn đau đớn và nhục nhã cùng tột này. Anh đã từng nghe Ngài giảng một vài lần và rất mến mộ Ngài. Một đôi lần do cảm kích vì lời của Ngài, anh đã muốn từ bỏ con đường tội lỗi ấy. Nhưng ý chí và nghị lực của anh quá yếu đuối không thắng nổi những trở lực của hoàn cảnh cứ cám dỗ và giữ chặt anh lại trên con đường ấy. Bây giờ anh đang cùng chịu đóng đinh bên cạnh Ngài, một con người vô cùng thánh thiện và hoàn toàn vô tội nhưng lại bị đánh đập tra tấn đau đớn hơn anh bội phần… Giờ đây anh thật sự hối hận. Sự hối hận ấy khiến anh trở nên hoa trái đầu mùa của ơn cứu chuộc mà Ngài đang phải trả giá bằng sự đau khổ và cái chết của Ngài. Ngài rất vui mừng khi thấy ngay trước mắt thành quả của những đau khổ Ngài đang chịu. Trong tương lai sẽ còn biết bao người hối hận và từ bỏ con đường tội lỗi như anh. Cũng như người cha nhân từ quên hết mọi lầm lỗi của đứa con hoang đàng đã làm mình đau khổ vô ngần, Ngài vui mừng đến nỗi quên hết tất cả tội lỗi của anh để chỉ nhìn thấy nơi anh lòng thống hối chân thành đầy giá trị trước mặt Thiên Chúa. Trong tâm tình tràn ngập yêu thương, Ngài hứa với anh: «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng» (Lc 23,43). Đó là câu nói thứ nhất của Ngài trên Thập Giá.

Sự việc xảy ra thật ý nghĩa. Đức Kitô đến để kêu gọi những người tội lỗi (x. Mt 9,13). Và đây, người đầu tiên hưởng ơn cứu độ của Ngài chính là một kẻ tội lỗi, một tên gian phi. Anh đâu cần làm gì, chỉ cần hối hận, nhìn nhận tội lỗi mình, đồng thời nhận Ngài là Đấng vô tội có khả năng cứu anh ta. Thật là một điều an ủi và khích lệ cho mọi người, nhất là với những người tội lỗi. Từ nay ơn cứu độ luôn luôn nằm ngay trong tầm tay con người, dù là con người tội lỗi nhất.

-- Lời nói thứ hai của Đức Giêsu trên thập giá: xin tha thứ cho tất cả những kẻ giết Ngài


Lời thứ hai Ngài nói trên Thập Giá là «Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm» (Lc 23,34). Cho dẫu giới lãnh đạo tôn giáo cố tình và rất tỉnh táo trong việc hãm hại Ngài bằng những đau đớn cùng cực, nhưng Ngài vẫn nhận ra được sự ngu muội của họ. Họ bị lòng ham muốn danh vọng, quyền lực, địa vị, tiền bạc làm lu mờ lương tâm và lý trí. Họ chỉ quen nghe những lời ca tụng, tâng bốc, nịnh nọt, và tỏ ra thật khó chịu hoặc tức giận khi có ai chân tình nói lên những tội lỗi hay khuyết điểm của họ. Họ quyết tâm giết Ngài một cách thâm độc nhất chính vì Ngài đã chân tình sửa sai họ. Vì yêu thương và muốn xây dựng cho họ, muốn họ nên tốt hơn, xứng đáng với địa vị lãnh đạo của họ hơn, Ngài đã nói lên sự thật về họ. Nhưng họ không quen chấp nhận sự thật, nhất là sự thật về bản thân họ, nên họ đã chụp mũ Ngài là phá đạo, phạm thượng, chống lại Thiên Chúa, toàn là những tội đáng chết!

Còn dân chúng, họ đã hô hào đòi giết chết Ngài, sẵn sàng đòi thả Baraba tên ăn cướp để Ngài phải chết. Ngài rất thông cảm với việc làm của họ. Họ chỉ như những con chiên hiền lành nhưng ngu muội, không có khả năng phán đoán độc lập. Phán đoán của họ bị lệ thuộc hoàn toàn vào những người lãnh đạo tinh thần của họ mà họ đã phần nào thần thánh hóa. Khi không có ai ảnh hưởng trên phán đoán của họ, họ thấy Ngài đúng là một thầy đạo rất thánh thiện, rất uy tín, chẳng những không làm gì đáng tội mà rất đáng ca tụng. Họ rất quý mến Ngài vì thấy Ngài yêu thương họ hơn ai hết, sẵn sàng cứu giúp họ, chữa lành mọi thứ bệnh tật cho những ai trong họ đến cầu cứu. Ngài có những lời nói còn chí lý và thuyết phục hơn cả những người lãnh đạo họ (x. Mc 1,22). Nhưng một khi những người lãnh đạo họ kết án Ngài là phá đạo, là phạm thượng, là chống lại Thiên Chúa, thì họ lập tức quay ngược lại 180 độ và nghĩ rằng Ngài đúng là như vậy. Thế là họ hùa theo những người lãnh đạo họ để hô hào trước thế quyền đòi phải giết Ngài cho bằng được, và họ cho rằng họ đã làm đúng. Không thể nào đòi hỏi họ khác hơn được, vì họ chỉ biết làm như thế. Sự ngu muội của đám đông cố hữu là như thế!

Ngài thông cảm với sự ngu muội của con người hơn bao giờ hết. Chính sự ngu muội này đã khiến con người gây ra cho nhau và cho chính bản thân họ biết bao nhiêu đau khổ. Và hiện nay, Ngài đang chính là nạn nhân của sự ngu muội ấy nơi họ. Vì thế, con người dù sao vẫn đáng thương hơn đáng trách rất nhiều. Do đó, trước khi nhắm mắt lìa trần, Ngài muốn tha thứ tất cả, chẳng những cho những kẻ hại Ngài đến chết, mà cho tất cả mọi người đang bị sự ngu muội che mờ hết lương tâm và lý trí. Quả thật, chính vì ngu muội, họ đã «không biết việc họ làm» (Lc 23,34).

Hai lời nói đầu tiên của Ngài trên thập giá đều là những lời nói tha thứ. Ôi sự tha thứ mà chỉ những ai có tâm hồn yêu thương và thông cảm vô bờ bến mới làm được! Sự tha thứ vô điều kiện ấy quả là điều đầy an ủi cho con người, nhất là cho những người tội lỗi. Như thế, qua Đức Giêsu, Thiên Chúa đã biểu lộ sự cảm thông rất sâu xa với những yếu đuối và hạn chế của con người.

-- Lời nói thứ ba: trối Mẹ mình cho Giáo Hội và Giáo Hội cho Mẹ mình

Lời thứ ba của Ngài trên Thập Giá là lời nói với mẹ Ngài và môn đệ Ngài yêu dấu nhất, cả hai đang có mặt dưới chân thập giá: «Thưa Bà, đây là con của Bà», và «đây là mẹ của anh» (Ga 19,26-27). Đó là hai người yêu dấu nhất của Ngài trên trần gian: một người là mẹ, một người là con, đứa con tinh thần, đại diện cho 12 đứa con tinh thần sẽ tiếp nối «miêu duệ» của Ngài ở trần gian. Ngài không có con theo máu mủ ruột thịt, mà chỉ có những đứa con tinh thần. Đối với Ngài, quan hệ ruột thịt chưa phải là quan trọng, mà quan hệ tinh thần – ở đây là quan hệ trong sứ mạng cứu chuộc theo thánh ý Chúa Cha – mới là quan trọng. Đức Maria là Mẹ Ngài vì đã luôn luôn thi hành thánh ý của Thiên Chúa hơn là vì đã sinh ra Ngài. Ngài đã chẳng từng nói: «Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi» (Mt 12,50) sao? Bổn phận của đứa con khi phải lìa đời trước cha mẹ là phải tìm người phụng dưỡng cha mẹ thay cho mình. Và bổn phận của người cha khi mất sớm là phải lo tìm người thay thế mình để nuôi dưỡng và giáo dục đàn con. Thì đây là lúc thuận tiện nhất để Đức Giêsu làm công việc ấy. Ngài giao lại đàn con là các môn đệ yêu dấu của mình cho Đức Maria, Mẹ Ngài, để từ nay Mẹ sẽ chăm lo cho họ thay mình. Và Ngài cũng giao Mẹ mình cho các môn đệ phụng dưỡng thay cho mình.

Thế là kể từ nay, Đức Maria đã trở thành Mẹ của các môn đệ Ngài và cũng là Mẹ của Giáo Hội hay hơn nữa của cả nhân loại mà Ngài có sứ mạng cứu chuộc. Đó là gia tài tinh thần mà Ngài muốn để lại cho các môn đệ, cho Giáo Hội và cả nhân loại: người mẹ thân yêu của Ngài, người đã từng đồng lao cộng khổ với Ngài trong công việc cứu chuộc, đồng thời cũng là một gương mẫu hoàn hảo cho mọi người noi theo. Điều làm Ngài hài lòng nhất nơi Mẹ mình là Mẹ đầy tình thương yêu đối với tất cả mọi tạo vật, nhất là đối với những ai đau khổ và tội lỗi. Vì thế Ngài xứng đáng là Mẹ của Ngài, của các môn đệ Ngài, của Giáo Hội Ngài đang thành hình và của toàn nhân loại nữa. Thế là kể từ đây, sau khi Ngài ra đi, các môn đệ Ngài có Mẹ an ủi vỗ về, khích lệ tinh thần mỗi khi gặp khó khăn chán nản. Và nếu Giáo Hội cũng như toàn nhân loại đã có một người Cha chung trên trời, thì kể từ đây cũng có một người Mẹ chung đầy tình thương luôn quan tâm lo lắng cho sự cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu của mọi người. Tất cả đều do sự sắp đặt đầy tình thương của Đức Giêsu đối với Giáo Hội và nhân loại.

-- Lời nói thứ tư của Đức Giêsu trên thập giá: cảm tưởng bị Thiên Chúa bỏ rơi

Lời thứ tư là «Êli, Êli, lama xabatani, nghĩa là: Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con? » (Mt 27,46), nói lên sự cô đơn cùng cực mà Ngài cảm thấy từ cơn hấp hối ở vườn Giệtsê tới lúc này, và nhất là lúc này. Vì Ngài gánh lấy toàn bộ tội lỗi của trần gian, nên Thiên Chúa Công Bình đã trút toàn bộ cơn thịnh nộ của mình lên đầu Ngài. Ngài đã bị trừng phạt thay cho toàn nhân loại để nhân loại được ơn tha thứ và làm hòa được với vị Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi sự công bằng. Thiên Chúa đã bỏ rơi Ngài cho nư cơn giận hầu có thể ôm lấy nhân loại vào lòng, một nhân loại tuy hư hỏng nhưng đã được Thiên Chúa thông cảm nhờ Đức Giêsu đã chia sẻ thân phận yếu hèn của con người, đã tự mình kinh nghiệm thân phận ấy. Khi mặc lấy và sống trong thân phận con người, Ngài đã thấy rằng con người thật đáng thương hơn đáng trách, cho dù tội lỗi con người có to tát đến đâu. Ơn cứu độ bắt nguồn từ sự thông cảm này.

Chính Thiên Chúa đã đau khổ vì nhân loại. Những đau khổ ấy đã thể hiện cụ thể trong lịch sử nhân loại qua những đau khổ tột cùng và đa dạng của Đức Giêsu. Chính đau khổ đã làm cho Thiên Chúa trở nên gắn bó và gần gũi con người hơn, và làm con người trở nên thân thiết với Thiên Chúa hơn. Chính nhờ Đức Kitô bị bỏ rơi mà con người trở nên con cái yêu dấu của Thiên Chúa. Ngài bị bỏ rơi để chúng ta khỏi bị bỏ rơi.

-- Lời nói thứ năm: «Tôi khát»

Lời thứ năm của Đức Giêsu trên thập giá là: «Tôi khát» (Ga 19,28). Nghe lời ấy, «người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người» (Ga 19,29). Giấm ở đây một loại đồ uống rẻ tiền, có chất men, mà các binh sĩ Rôma uống để giải khát trong thời gian thi hành lệnh hành quyết tội nhân. Chắc chắn lúc ấy Ngài hết sức khát nước vì máu và mồ hôi ra nhiều mà không được uống nước để bù lại số nước bị mất trong người. Khi cơn khát lên đến cùng cực, với bản tính yếu đuối của con người, Ngài đã phải thốt lên câu «Tôi khát! » Nhưng khi người ta đưa đồ uống đến cho Ngài, theo Tin Mừng Gioan thì Ngài chỉ «nhắp» chứ không uống. Phản ứng của những người bình thường trong trường hợp khát đến mức như thế là uống được nhiều ngần nào có thể cho đã cơn khát. Đức Giêsu không phản ứng như thế. Ngài tỏ ra hoàn toàn tự chủ trước cơn khát cháy cổ đang dày vò Ngài. Rất có thể Ngài muốn tiếp tục chịu đựng cơn khát và không muốn giảm bớt đau khổ bằng việc uống cho đã khát. «Chén đắng» mà Thiên Chúa Cha trao cho Ngài, Ngài muốn uống cạn đến giọt cuối cùng. Ngài không muốn giảm bớt bất cứ một đau khổ nào mà Thiên Chúa muốn Ngài chịu để biểu lộ tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đối với nhân loại.

Câu nói «Tôi khát» còn có một ý nghĩa khác. Phản ứng của Ngài – chỉ «nhắp» một chút xíu – cho thấy Ngài nói «tôi khát» không phải để được người ta cho uống hầu làm giảm cơn khát thể lý. «Khát» ở đây mang ý nghĩa tâm lý nhiều hơn. Ngài khát gì vậy? Ta thấy, vì yêu thương nhân loại, đặc biệt Dân của Ngài, mà Ngài xuống trần gian tại đất nước Do Thái. Nhưng từ ngày Ngài sinh ra đến giây phút cuối cùng này, tình yêu vô bờ bến của Ngài chỉ được đáp trả bằng hờ hững, hận thù. Lúc nào Ngài cũng bị con người – mà Ngài yêu thương đến tận cùng – hất hủi, tẩy chay… Một người yêu thương như thế mà không được đáp lại thì khao khát gì? Có ai yêu thương mà không muốn được người mình yêu yêu lại mình. Đó chính là tâm sự đau thương của Ngài mà Ngài có nhu cầu bộc lộ ra vào lúc sắp từ giã cõi đời. Vì Ngài yêu thương con người vô hạn, nên Ngài cũng khao khát tình yêu của con người đối với Ngài vô hạn. Nhưng con người đã không thõa mãn cho Ngài nỗi khao khát đó. Yêu mà không được yêu lại thì còn gì khổ bằng? Đó cũng chính là nỗi khổ đau của Thiên Chúa, khổ đau vì nỗi khao khát không được thõa mãn.

-- Lời nói thứ sáu: phó thác linh hồn trong tay Thiên Chúa

Lời thứ sáu là: «Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha» (Lc 23,46). Đức Giêsu chính là Ngôi Lời. Theo Thánh Gioan thì «từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa» (Ga 1,1). Và Ngôi Lời đã xuống trần gian nhập thể trong lịch sử con người để cứu độ họ, bằng cách chia sẻ thân phận yếu đuối và đau khổ của họ. Ngài đã đau khổ tột cùng, và đã hoàn tất sứ mạng cứu độ con người bằng cuộc khổ nạn Thập Giá. Bây giờ Ngài lại trở về cùng Thiên Chúa. Sứ mạng cực kỳ gian khổ của Ngài đã hoàn tất, Ngài không còn đau khổ nữa. «Con phó thác linh hồn con trong tay Cha» là một thở phào nhẹ nhõm của một người đã làm xong nhiệm vụ và tới lúc trở về với người đã sai mình với tâm hồn hân hoan.

Thái độ phó thác trong tay Thiên Chúa là một thái độ thường hằng của Đức Giêsu. Không một lúc nào trong cuộc đời của Ngài mà Ngài không phó thác bản thân cũng như tất cả mọi sự của mình và của cả nhân loại cho Thiên Chúa. Ngài chỉ biết làm theo thánh ý Thiên Chúa Cha, và phó mặc tất cả những gì còn lại trong tay Cha. Ngài không lo gì cho bản thân Ngài, mà chỉ biết lo cho Chúa Cha và nhân loại. Bản thân Ngài, hạnh phúc và đau khổ hay thành công và thất bại của Ngài, Ngài đều hoàn toàn để Cha Ngài định đoạt. Cả cuộc đời, Ngài đã sống trọn vẹn câu: «Hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài trước đã, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau» (Mt 6,33).

Câu «Con phó thác linh hồn con trong tay Cha» trên thập giá là câu nói tóm gọn lại thái độ phó thác mà Ngài đã thực hiện suốt cuộc đời Ngài.

-- Lời nói thứ bảy: «mọi sự đã hoàn tất»

Lời thứ bẩy, lời cuối cùng Đức Giêsu nói trên Thập Giá là: «Mọi sự đã hoàn tất» (Ga 19,30). Nói xong Ngài trút hơi thở cuối cùng. Trước khi lìa cõi đời, Đức Kitô cảm thấy Ngài đã làm xong tất cả những gì mình phải làm, tức công việc cứu độ nhân loại. Có thể nói đây là một câu nói thỏa mãn của một người vừa qua một tai nạn lớn, hay của một người vừa hoàn thành một nhiệm vụ hết sức khó khăn. Đức Kitô đã uống cạn «chén đắng» mà Chúa Cha trao cho một cách dũng cảm, hoàn hảo, không một chỗ nào đáng chê trách. Mọi công việc, mọi gian nan rồi cũng phải qua, không thể kéo dài mãi, nhưng nếu được hoàn thành một cách tốt đẹp do những cố gắng hết sức của mình, thì ta sẽ cảm thấy thỏa mãn, hài lòng. Mọi sự đều qua đi, nhưng kết quả của chúng thì tồn tại lâu dài.

Phần thưởng lớn nhất của Đức Kitô khi còn tại thế chính là lúc Ngài thốt ra được câu này. Có thể nói rằng Ngài đã chết trong tâm trạng rất thỏa mãn, hoàn toàn hạnh phúc, không có gì phải hối tiếc cả. Không có cái chết nào đẹp bằng cái chết của Ngài. Ngài đã sống rất đẹp và chết cũng rất đẹp. Cả đời Ngài là một tuyệt tác của Chúa Cha. Có thế mới bù lại được cái «sản phẩm bị hư hỏng» của Ngài là con người. Nhờ đó, kể từ nay, quan hệ giữa Thiên Chúa và nhân loại đã trở thành tốt đẹp: Đức Kitô đã bắc một nhịp cầu vững chắc nối con người lại với Thiên Chúa. Do đó, Ngài là «Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người» (1Tm 2,5).

Bây giờ, Ngài đã hoàn tất những đau khổ cần thiết để biểu lộ tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Những đau khổ này do chính con người gây ra cho Ngài, cho dù mục đích của Ngài là đem hạnh phúc đến cho họ. Nhưng Ngài đã đến không như cách họ mong chờ Ngài. Người ta mong Ngài đến để giải phóng họ khỏi những đau khổ do ngoại bang áp bức, để đem lại ấm no hạnh phúc cho họ, thì Ngài lại đem tình yêu thương tới. Họ mong Ngài là một nhà chính trị hay quân sự thì Ngài lại là một vị đạo sư. Họ mong Ngài tới để xóa bỏ đau khổ, thì Ngài lại đến để cùng chịu đau khổ với họ và biến đau khổ thành phương tiện để mưu hạnh phúc… Tư tưởng của Thiên Chúa quả khác hẳn với tư tưởng con người, cái khôn của Thiên Chúa khác hẳn với cái khôn con người. Chính vì thế, con người không thể hiểu được cách hành động của Thiên Chúa, nên mới sinh ra chuyện con người giết Thiên Chúa, và Thiên Chúa chịu đau khổ vì con người. Đối với Thiên Chúa, con người là một tác phẩm, nhưng là tác phẩm gây đau khổ cho chính Ngài.



Kết luận

Như thế có phải Thiên Chúa không biết gì đến những đau khổ của con người chăng? Có phải Ngài chỉ biết sung sướng một mình trên Thiên Đàng một cách ích kỷ, bỏ mặc con người đang đau khổ quằn quại trong cái địa ngục trần gian này không? Không, hoàn toàn không! Thiên Chúa cũng đau khổ, cũng biết khóc như con người và chỉ vì tình yêu đối với con người mới làm cho Ngài đau khổ như thế. Ngài không những đau khổ vì bị giằng co giữa hai khuynh hướng mâu thuẫn trong bản chất của Ngài là công bằng và yêu thương đối với con người, mà Ngài còn hiện thân thành một con người thật sự để được đau khổ tận cùng hầu chia sẻ và thông cảm với mọi đau khổ của con người. Ngài chưa thể xóa bỏ mọi đau khổ cho con người vì luật công bằng của Ngài đòi hỏi phải như thế. Con người đã phạm tội thì phải chịu hậu quả tất yếu của tội là đau khổ. Thiên Chúa chỉ có thể cứu con người bằng cách cùng đau khổ với họ, cùng chia sẻ thân phận đau khổ của kiếp người với họ. Nhờ đó, Ngài giúp họ biến những đau khổ của họ thành những giá trị mang tính vĩnh cửu, để họ góp phần vào việc xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu của chính họ. Đó là điều an ủi rất lớn cho con người đang phải rên siết trong đau khổ ở trần gian, vì họ không đau khổ một mình, mà chính Thiên Chúa vô cùng cao cả và quyền năng cũng cùng đau khổ với họ và vì họ. Chính Đức Giêsu con yêu dấu của Thiên Chúa, hoàn toàn vô tội, cũng đến để chia sẻ đau khổ với họ.

Thật là một nhiệm mầu lạ lùng khôn tả! Thiên Chúa đã dùng đau khổ của chính mình để xoa dịu những đau khổ của con người. Ngài đã dùng thương tích của chính Ngài để chữa lành những vết thương của con người (lPr 2,24b). Đó chính là sự cứu rỗi.

Đức Giêsu và Thập Giá đi đôi với nhau

Sự cứu rỗi của con người được cấu thành bởi hai yếu tố, Đức Giêsu và Thập Giá. Không có Đức Giêsu, Thập Giá trở thành cái gì khủng khiếp và vô ích. Có Đức Giêsu mà không có Thập Giá, Thiên Chúa chưa biểu hiện được tình yêu vô biên và sự thông cảm sâu xa của Ngài đối với nhân loại. Đức Giêsu không chỉ đến với con người để hiện điện bên cạnh họ mà thôi, nhưng cuộc đời Ngài đã gắn liền với Thập Giá. Đức Giêsu và Thập Giá đi đôi với nhau mới đem lại ơn cứu độ cho chúng ta.

Phần chúng ta, lúc nào chúng ta cũng có sẵn những thập giá trong cuộc đời, những thập giá đó sẽ trở thành vô ích nếu chúng ta không biết gắn Đức Giêsu lên trên đó để biến chúng thành những «thánh giá». Gắn Đức Giêsu vào những thập giá của chúng ta chính là hiệp thông những đau khổ của chúng ta với những đau khổ của Đức Giêsu, nghĩa là vui lòng chấp nhận đau khổ để cùng chia sẻ đau khổ với Ngài, sẵn sàng chịu đau khổ thiệt thòi cho tha nhân vì yêu thương họ. Có như thế đau khổ mới trở thành nguồn ơn cứu độ, đem lại hạnh phúc. Những ai thật sự có Đức Giêsu ở với mình, sẽ sẵn sàng lãnh nhận đau khổ, vừa để cứu giúp tha nhân, là cách thể hiện tình yêu và sự từ bỏ mình, vừa để cảm thông và chia sẻ với Đức Giêsu sứ mạng cứu chuộc và thánh hóa nhân loại của Ngài. Có sẵn lòng chịu đau khổ vì Ngài và vì tha nhân mới chứng tỏ được mình là người theo Ngài và có tình yêu, có Thiên Chúa ở nơi mình: «Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo» (Mt 16,24) ; «Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được» (Lc 14,27).

Chấp nhận khổ đau mới cứu được đau khổ

Khổ đau phải được cứu độ bằng khổ đau. Đó chính là phương pháp «dĩ độc trị độc» mà y học đôi khi áp dụng cho bệnh nhân. Trong đời sống con người, thông thường, muốn cứu giúp ai khỏi hoạn nạn, đau khổ, người cứu giúp phải chấp nhận một số thiệt thòi, mất mát, khó chịu hay đau khổ nào đó. Nếu con cái được sống hạnh phúc và đầy đủ, không bị rơi vào bất hạnh túng thiếu thì đó là do sự hy sinh, chấp nhận đau khổ của cha mẹ. Cũng thế, Thiên Chúa đã chịu đau khổ để con người hạnh phúc. Chấp nhận đau khổ như thế là dấu hiệu của tình yêu. Không chấp nhận đau khổ vì người khác thì chứng tỏ mình không có tình yêu. Tình yêu chỉ có thể được chứng tỏ rõ rệt nhất bằng hy sinh và đau khổ. Thiên Chúa đau khổ, đó là dấu chứng chắc chắn nhất chứng tỏ Ngài yêu thương nhân loại thực sự. Nếu Ngài không đau khổ, con người sẽ khó nhận ra được tình thương của Ngài. Có yêu thương mới có thể chịu khổ, chịu lụy vì người mình yêu. Và có chịu lụy, chịu khổ vì người mình yêu mới chứng tỏ được tình yêu.

Yêu thương và chấp nhận đau khổ vì yêu thương

Bài học quan trọng nhất mà Đức Giêsu dạy chúng ta là: «Hãy yêu thương nhau như chính Thầy yêu thương các con». Nếu Ngài yêu thương chúng ta bằng cách chịu đau khổ tột cùng vì ta, cho ta, thì muốn áp dụng bài học của Ngài, ta cũng phải sẵn sàng chịu đau khổ vì nhau, cho nhau. Ta không thể nào nói mình yêu thương anh em khi anh em đau khổ hoạn nạn mà ta lại không sẵn sàng chia sẻ đau khổ với họ bằng chính những hy sinh của ta (x. Gc 2,15-16). Tất cả mọi nỗi đau khổ của Ngài cũng chỉ có mục đích cứu độ nhân loại bằng cách đem tình thương vào thế giới, nghĩa là làm cho mọi người yêu thương nhau. Do đó, nếu chúng ta yêu thương nhau, và thể hiện tình yêu thương đó bằng hy sinh cho nhau và sẵn sàng chịu đau khổ để làm cho nhau hạnh phúc, là chúng ta đã thực hiện ơn cứu độ cho chính chúng ta, và làm cho ơn cứu độ của Đức Giêsu Giêsu thành tựu nơi chúng ta. Có thể nói, nếu chúng ta không yêu thương nhau và không chấp nhận chịu khổ đau cho nhau, thì sự cứu độ của Đức Giêsu cùng với những đau khổ của Ngài sẽ trở thành vô ích cho chúng ta. Và Nước Thiên Chúa mà Ngài chủ trương thành lập không bao giờ thành tựu được.

Vậy, chúng ta hãy yêu thương và chấp nhận chịu đau khổ vì nhau như chính Thiên Chúa và Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta và chịu đau khổ vì chúng ta.

Có thể nói cuộc đời của Đức Giêsu đầy dẫy những đau khổ do con người gây ra cho Ngài, chỉ vì Ngài đặt tình thương lên trên hết khiến con người không nhận ra Ngài và hiểu lầm Ngài. Con người không nhận ra Ngài, và tự làm cho mình đau khổ, mất hạnh phúc, chính vì con người không đặt nặng tình thương mà chỉ đặt nặêng hạnh phúc và quá dị ứng với đau khổ. Họ không chịu chấp nhận đau khổ mà chỉ mong thoát khỏi đau khổ bằng bất cứ cách nào, cho dù bằng cả tội ác là cách chỉ gây thêm đau khổ. Đang khi đau khổ không chỉ là hậu quả của tội lỗi mà còn là phương thuốc hữu hiệu để giải trừ tội lỗi và những hậu quả xấu của nó.

Đau khổ là do lòng ích kỷ: muốn hạnh phúc và sợ đau khổ chỉ cho mình

Con người ngu muội chỉ biết sợ hậu quả mà không biết tránh nguyên nhân: đau khổ là hậu quả tất yếu của tội lỗi thì con người vô cùng sợ hãi; còn tội lỗi là nguyên nhân tất yếu gây nên đau khổ thì con người không thèm tránh, mà lại ham thích và sẵn sàng lao mình vào. Vì thế, con người dù khao khát hạnh phúc vô cùng, nhưng hạnh phúc dường như càng ngày càng vuột xa khỏi tầm tay con người; và dù rất sợ đau khổ, con người vẫn dường như luôn luôn hấp dẫn đau khổ đến với mình. Con người bị rơi vào trong vòng lẩn quẩn sau đây:

– do quá ham hạnh phúc và quá sợ đau khổ, con người sẵn sàng phạm tội: vì khi phạm tội con người cảm thấy như tìm được hạnh phúc và tránh được đau khổ ngay trước mắt;

– nhưng tội lỗi con người phạm lại bít kín con đường dẫn tới hạnh phúc và mở ra con đường dẫn đến đau khổ.

– thế là con người bị mất hạnh phúc và chìm ngập trong đau khổ. Càng mất hạnh phúc, càng chìm ngập trong điều kiện thì lòng ham muốn hạnh phúc và sợ hãi đau khổ lại càng tăng lên.

– lòng ham hạnh phúc và quá sợ đau khổ khiến con người sẵn sàng phạm tội để mong đạt được hạnh phúc và tránh được đau khổ.

Cứ thế, con người tiếp tục vòng luẩn quẩn trên, hết vòng này đến vòng khác, khiến con người muôn đời trầm luân trong đau khổ.

Muốn chấm dứt vòng luẩn quẩn đó, con người phải nhận định sáng suốt về nguyên nhân của hạnh phúc và đau khổ. Hạnh phúc là kết quả tất yếu của sự thánh thiện và vị tha, còn đau khổ là hậu quả tất yếu của tội lỗi và lòng ích kỷ. Muốn hạnh phúc thì phải sống thánh thiện và vị tha. Khi thật sự sống thánh thiện và vị tha thì chẳng cần mưu cầu hạnh phúc, chẳng cần phải tránh né đau khổ, mà hạnh phúc vẫn cứ đến với mình, và tâm hồn thường xuyên cảm thấy bình an hạnh phúc. Muốn tránh đau khổ thì phải đoạn tuyệt với tội lỗi và tính ích kỷ. Nếu cứ sống tội lỗi và ích kỷ, thì dù có mưu cầu hạnh phúc và cố gắng tránh đau khổ đến đâu, đau khổ vẫn cứ tự nhiên đến với mình như một điều tất yếu, còn hạnh phúc thì càng ngày càng trở nên xa vời. Chính lòng ham muốn cho mình được hạnh phúc và nỗi sợ hãi mình bị đau khổ là thứ ham muốn và sợ hãi mang tính ích kỷ, thường dẫn con người đến tội lỗi, và kết quả là con người mất hạnh phúc và bị đau khổ. Do đó, con người cần phải diệt lòng ham muốn và nỗi sợ hãi đầy tính ích kỷ đó.

Còn lòng mong muốn cho người khác được hạnh phúc, và sợ người khác bị đau khổ làm cho tâm hồn con người nên thánh thiện, vị tha, chẳng những đem lại hạnh phúc cho tha nhân, mà còn luôn luôn là nguyên nhân dẫn đến hạnh phúc của chính mình. Đây chính là tình yêu, nó chính là yếu tố chủ yếu nhất làm cho con người trở nên giống Thiên Chúa, một Thiên Chúa mà bản chất là Tình Yêu (x. 1Ga 4,8.16). Chính thái độ yêu thương này mới có khả năng đem lại hạnh phúc đích thực và lâu bền cho con người. Nhưng con người không hiểu được điều này. Họ chỉ biết lo cho hạnh phúc và đau khổ của mình, chứ không hề quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của người khác.

Yêu thương và đau khổ vì yêu thương mới dẫn đến hạnh phúc

Như vậy, qua Đức Giêsu, Thiên Chúa đã làm gương cho chúng ta về việc chấp nhận đau khổ để được hạnh phúc. Đức Giêsu nói: «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,24-25). Thiên Chúa đã vì tình yêu đối với con người mà chấp nhận đau khổ để con người được hạnh phúc. Và chính nhờ tình yêu cao độ đó, nhờ hoàn toàn chấp nhận đau khổ và triệt để tự xóa mình vì tình yêu, mà Thiên Chúa luôn luôn hạnh phúc, hạnh phúc vô cùng vô tận. Cũng vậy, con người chỉ có thể đạt được hạnh phúc khi con người biết yêu thương nhau, và sẵn sàng chấp nhận đau khổ vì tình yêu.

Nguyễn Chính Kết