Monday, September 9, 2024

ĐTTG-I C-2-Đối tượng chung của mọi tôn giáo là Thực Tại Tuyệt Đối

 

Chương 2

 

Đối tượng chung của mọi tôn giáo là Thực Tại Tuyệt Đối

 

Thực Tại Tuyệt Đối chỉ có một,
nhưng được gọi tên và quan niệm cách khác nhau

Chân Lý Tối Thượng mà tôn giáo nào cũng nhắm tới, ta tạm gọi là «Thực Tại Tuyệt Đối». Sở dĩ phải «tạm gọi» như thế là vì trong kho tàng ngôn ngữ - vốn mang tính nhị nguyên - của con người, không có từ ngữ nào có thể diễn tả được cái mà ta tạm gọi là «Thực Tại Tuyệt Đối» ấy. Gọi «Thực Tại» ấy là một thực tại, thì e rằng ta mới chỉ nói lên khía cạnh «thực» của thực tại ấy. Nói «Thực Tại» ấy là «Tuyệt Đối» thì cũng chỉ nói được khía cạnh «tuyệt đối» của thực tại ấy thôi. «Thực Tại» ấy không phải là thực, là tuyệt đối theo cách hiểu hạn hẹp của ta, hay theo những ý niệm do từ ngữ «thực» «tuyệt đối» ấy gợi lên. Ta tạm gọi là «Thực Tại Tuyệt Đối» vì đối với hầu hết các tôn giáo, danh từ ấy tương đối có thể chấp nhận được.

«Thực Tại Tuyệt Đối» ấy chỉ có một, nhưng mỗi tôn giáo lại gọi bằng những tên khác nhau: Kitô giáo gọi là Thiên Chúa, Đức Chúa Trời; Phật giáo gọi là Chân Như Phật tính, Tâm; Ấn Độ giáo gọi là Đại Ngã (Brahman); Đạo giáo (của Lão Tử) gọi là Đạo; Cao Đài giáo gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đức Cao Đài; người bình dân gọi là Thượng Đế hay Ông Trời… Tất cả những tên đó, không có tên nào hoàn toàn xứng hợp với Thực Tại ấy cả. Mỗi tên chỉ diễn tả một khía cạnh đặc thù nào đó của Thực Tại ấy thôi.

Mỗi tôn giáo lại quan niệm thực tại ấy theo những cách thức rất khác nhau, tùy theo nền văn hóa và triết lý nền tảng mà họ dùng để quan niệm thực tại. Thực Tại ấy, tôn giáo này quan niệm là hữu ngã, tôn giáo khác lại quan niệm là vô ngã. Tôn giáo này quan niệm Thực Tại ấy tạo dựng nên muôn loài vạn vật và khác biệt với muôn loài vạn vật, tôn giáo kia quan niệm Thực Tại ấy bản thể hay nền tảng bất biến của vũ trụ vạn vật, là một với vũ trụ vạn vật, nghĩa là biến hiện thành vũ trụ vạn vật chứ không phải tạo dựng nên vũ trụ vạn vật… Tất cả mọi cách quan niệm về Thực Tại ấy, không một cách nào quan niệm một cách toàn diện Thực Tại hết sức phong phú và đa diện ấy được. Quan niệm nào cũng chỉ là một cái nhìn phiến diện về Thực Tại ấy thôi. Và những quan niệm phiến diện ấy thường bổ túc cho nhau hơn là bài trừ lẫn nhau.

Những tên khác nhau, và những quan niệm khác nhau đi liền với mỗi tên đó, đều quy về chỉ một Thực Tại duy nhất, vì tôn giáo nào cũng quan niệm Thực Tại đó là duy nhất, tuyệt đối, bất biến, vô cùng, siêu việt, siêu nghiệm, không thể nghĩ bàn, là nền tảng duy nhất cho mọi thực tại tương đối, biến đổi và hữu hạn. Đó là những thuộc tính căn bản nhất của mà mọi tôn giáo đều có thể tạm thống nhất với nhau về Thực Tại ấy. Như vậy, chân tính của Thực Tại ấy vẫn có thể tạm xác định được bất chấp người ta quan niệm khác nhau về Thực Tại ấy.

Ngôn ngữ con người bị hạn chế, không có khả năng diễn tả về Thực Tại Tối Hậu

Sở dĩ tôi phải dùng chữ «tạm», vì chúng ta đang dùng ngôn từ của con người để diễn tả về một Thực Tại vốn vượt khỏi mọi ngôn ngữ, mọi ý niệm của con người. Tất cả mọi từ ngữ và ý niệm của con người đều mang tính đơn diện, tĩnh, nhị nguyên ([1]). Trong khi đó, mọi thực tại đều đa diện, luôn biến động hay biến đổi, và mang tính nhất nguyên.

Xin dùng một minh họa cho dễ hiểu:

Thực tại trong vũ trụ thì có nhiều chiều kích, mầu sắc và luôn luôn biến động. Nhưng để diễn tả thực tại, ngôn ngữ con người giống như một máy chụp ra hình trắng đen. Khi chụp một vật, một cảnh, thì hình chụp ra đúng là hình của vật ấy, cảnh ấy, và nhờ đó người ta có thể tạm hình dung ra vật ấy, cảnh ấy, vì nó ghi lại rất trung thực và khách quan nhưng chỉ trong khả năng của nó những gì mà vật ấy hay cảnh ấy hiện ra. Nhưng thử hỏi vật ấy, cảnh ấy có hoàn toàn giống y hệt như hình của nó không, thì ta phải nói là không vì nhiều lý do sau:

– Vật hay cảnh ấy có nhiều màu sắc khác nhau chứ không chỉ có một màu trắng hoặc đen như trong hình chụp. Đó là chưa nói tới những màu sắc mà ngay cả mắt con người cũng không nhìn thấy, như màu hồng ngoại và những màu phát ra tần số cao hơn màu đỏ, hoặc màu cực tím và những màu phát ra tần số thấp hơn màu tím. Những màu này tuy con người không thấy được, nhưng có những con vật thấy được, hoặc nhiều loại máy chụp tối tân có thể chụp được, như loại Kirlian camera có thể chụp được năng lượng hay hào quang tỏa ra chung quanh mỗi người.

– Vật hay cảnh ấy có cả một bề dày và bề sâu của nó. Người bình thường nào cũng có thể hình dung ra 3 chiều của nó (ngang, dọc, sâu), chưa nói tới những chiều khác nữa mà người có trình độ cao có thể nghĩ tới. Còn hình chụp chỉ là một tờ giấy mỏng tanh với hai chiều (ngang, dọc) mà thôi. Chỉ dùng hai chiều ngang, dọc để diễn tả chiều sâu thì quả thật là rất giới hạn.

– Vật hay cảnh có thể nhìn ở nhiều góc độ khác nhau để được thấy theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn một cách đơn giản, nếu vật ấy là một vòng tròn, thì khi nhìn đối diện ta thấy nó tròn; khi nhìn xéo ở nhiều mức khác nhau ta thấy những hình ellip có các biên độ khác nhau; khi nhìn ngang ta thấy nó thành một đoạn thẳng. Còn hình chụp thì chỉ diễn tả được một cách nhìn về vòng tròn ở một vị thế duy nhất nào đó mà thôi.

– Vật hay cảnh còn đang thay đổi theo thời gian và di chuyển trong không gian. Còn hình chụp thì cố định, bất biến, vì thế, khi vừa chụp xong thì vật hay cảnh ấy không còn như trong ảnh nữa, mà đã trở nên khác đi rồi. Ảnh chụp tôi lúc 8 tuổi không còn giống với tôi trong hiện tại – hơn 50 tuổi – mặc dù vẫn là ảnh của tôi.

– Vật hay cảnh còn phát ra âm thanh, mùi, vị, nhiệt độ mà hình chụp không thể ghi nhận được. Hình chụp cũng không thể ghi lại đúng độ lớn của vật hay cảnh, trừ tỷ lệ về độ lớn giữa những gì nó ghi nhận được.

Ngôn ngữ hay ý niệm cũng tương tự như hình chụp, nó diễn tả thực tại một cách hết sức thiếu sót. Không thể nói bất kỳ một ý niệm nào về một thực tại hoàn toàn tương ứng với thực tại ấy được, nhất là khi nói đến những ý niệm về Thực Tại Tối Hậu, là thực tại hoàn toàn vượt khỏi mọi kinh nghiệm của con người. Thật là ngây ngô khi ta cho một ý niệm cố định nào đó về Thực Tại Tối Hậu lại có thể bao trùm hết Thực Tại ấy, cũng như cho một hình chụp của một vật hay cảnh nào đó bao trùm được hết vật hay cảnh ấy. Nếu chủ trương rằng một ảnh chụp không thể bao trùm hết được vật hay cảnh mà nó ghi nhận, ta mới dễ chấp nhận những ảnh chụp khác với nó cũng có thể là ảnh chụp của chính vật hay cảnh ấy. Cũng vậy, khi cho rằng ý niệm của ta không thể bao trùm hết Thực Tại Tối Hậu, thì ta mới dành chỗ đứng cho những ý niệm khác về Thực Tại Tối Hậu của các tôn giáo khác được.

Những đặc tính chung được gán cho Thực Tại Tối Hậu chỉ là «gượng dùng» hay «tạm dùng»

Những đặc tính chung mà ta vừa nghĩ và gán cho Thực Tại Tối Hậu chỉ có tính tạm dùng hay gượng dùng mà thôi, vì không có những từ ngữ hay ý niệm nào khác nhau hơn. Thật vậy, khi nói về Đạo – từ ngữ mà Lão Tử gượng dùng để chỉ Thực Tại Tối Hậu – Lão Tử viết: «Ta không biết tên, gọi đó là Đạo, gượng cho là Lớn» (Đạo Đức Kinh, ch. 25, b). «Gượng cho là Lớn» có nghĩa là nói là «Lớn» thì cũng không chính xác. Vì như Ấn Độ giáo diễn tả về Brahman (Đại Ngã): «Nó lớn đến nỗi cả vũ trụ bao la cũng không chứa nổi nó, nhưng nó cũng nhỏ đến nỗi có thể được chứa trọn vẹn trong một hạt bụi nhỏ nhất của trần gian». Khi nói về Chân Như hay Phật tính, thì Phật cho rằng Nó «bất nhất bất dị» (nghĩa là không là một mà cũng không khác với vũ trụ vạn vật), «bất thường bất đoạn» (không liên tục mà cũng không gián đoạn)… Những ý niệm mâu thuẫn nhau này chỉ trở nên dễ hiểu được khi thực tại được quan niệm là đa diện, biến động và nhất nguyên mà thôi ([2]).

Những người đòi hỏi sự chính xác của ngôn ngữ thì không thể chấp nhận những đặc tính nêu trên là căn bản và chung cho mọi quan niệm về Thực Tại Tối Hậu trong các tôn giáo. Chẳng hạn trong các tôn giáo Á châu, có những tín đồ không chấp nhận áp dụng từ «tuyệt đối» cho Thực Tại Tối Hậu. Họ cho rằng tuyệt đối và tương đối là hai hạn từ nương nhau mà có: ý niệm «tuyệt đối» phát sinh là do so sánh với những gì tương đối, nên cả hai đều là tương đối. Do đó Thực Tại Tối Hậu phải là cái gì vượt lên trên cả tuyệt đối lẫn tương đối. Và cũng tương tự như thế đối với các hạn từ khác như «vô cùng», «bất biến», v.v… Vì thế, trong ngôn ngữ con người, không có một từ nào thích hợp cho Thực Tại Tối Hậu cả.

Thật ra, tất cả những từ gượng dùng trên đều là những ý niệm phát xuất từ kinh nghiệm của con người, tạm gán cho Thực Tại Tối Hậu để có thể tạm nói về thực tại ấy. Nếu không như thế thì không thể nói gì được về thực tại ấy. Vì Thực Tại Tối Hậu thì chẳng những siêu việt mà còn siêu nghiệm, hoàn toàn không tương ứng với bất kỳ kinh nghiệm nào của con người. Minh họa về ánh sáng và màu sắc đối với những người mù bẩm sinh sau đây giúp ta dễ hiểu vấn đề hơn.

một bộ lạc sống tại một thung lũng cô lập nọ, trong đó, tất cả mọi người trong bộ lạc đều bị bệnh mù di truyền bẩm sinh. Do đó họ mù từ thế hệ này sang thế hệ kia, và không biết mù từ đời nào. Họ không giao thiệp với bộ lạc nào khác, và không bộ lạc nào khác giao thiệp với họ. Họ không bao giờ được nghe nói tới ánh sáng và màu sắc, nên không hề có một ý niệm nào về ánh sáng và màu sắc cả. Cho tới một ngày kia, có một người sáng mắt tình cờ tới thung lũng đó. Anh ta muốn nói về ánh sáng và màu sắc cho họ, nhưng tất cả những ý niệm nào của anh liên quan đến ánh sáng và màu sắc, dùng để mô tả thực tại ấy, thì họ đều không sao hiểu nổi. Còn tất cả những gì họ có thể quan niệm nổi thì đều không phù hợp để tạo nên một ý niệm đúng đắn về ánh sáng và màu sắc.

Khi nói về mầu xanh chẳng hạn, vì họ không hiểu được, nên họ hỏi ngược lại anh: mầu ấy có giống như cảm giác nhẵn hay nhám, gồ ghề hay phẳng, lạnh hay nóng… mà họ đã từng kinh nghiệm được không? Mầu ấy có giống như tiếng chim hót hay như tiếng suối chảy không? Nó có giống như vị ngọt hay đắng, hay mặn, hay chua? v. v… Anh sẽ phải trả lời không cho tất cả mọi câu hỏi của họ. Vì mầu xanh hoàn toàn là một cái gì siêu nghiệm đối với người chỉ có bốn giác quan không phải là thị giác. Không có một cách diễn tả nào tương ứng với bốn giác quan ấy lại có thể phù hợp với mầu xanh. Ánh sáng và mầu sắc hoàn toàn nằm ngoài những ý niệm của những người mù bẩm sinh kia thế nào, thì Thực Tại Tối Hậu cũng hoàn toàn nằm ngoài những ý niệm của con người như vậy.

Nếu phải dùng những ý niệm nghèo nàn của họ để diễn tả về ánh sáng và màu sắc, anh cảm thấy hầu như hoàn toàn bất lực. Tuy nhiên, vì phải thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của họ về ánh sáng và màu sắc, anh cũng phải tạm cho họ một ý niệm hết sức thô thiển và sơ sài về ánh sáng và màu sắc dựa vào những kinh nghiệm thiếu thốn mà họ đang có. Chẳng hạn ánh sáng tựa như những tia nước nhỏ bắn ra từ một nguồn nước. Còn màu sắc tương tự như điều con người cảm nhận được khi những tia nước đó đụng chạm đến một vật nào đó. Khi tạm diễn tả một cách nghèo nàn như vậy, anh phải lưu ý họ rằng ánh sáng một phần rất nhỏ tương tự như vậy chứ không phải như vậy. Ý niệm nghèo nàn anh cố tạo ra cho họ ấy về ánh sáng và màu sắc so với ý niệm thực tế của anh thì chỉ đúng bằng 1/100 hay 1/1000. Sự chênh lệch quá lớn ấy không phải do anh không muốn cho họ biết, mà vì khả năng ngôn ngữ và những ý niệm có sẵn của họ không thể tương ứng được với thực tại ấy.

Thực Tại Tuyệt Đối là cứu cánh chung, và là trọng tâm của mọi tôn giáo

Dù quan niệm về Thực Tại ấy có khác nhau, nhưng không tôn giáo nào lại không lấy Thực Tại Tuyệt Đối duy nhất ấy làm cứu cánh và làm trọng tâm cho mọi sinh hoạt của mình. Kitô giáo lấy Thiên Chúa làm đối tượng tôn thờ và cứu cánh cho hiện hữu mình. Phật giáo lấy việc thực nghiệm được Chân Như Phật tính nơi chính bản thân cũng như nơi ngoại vật làm đối tượng giác ngộ hay kiến tính và coi đó là nguồn giải thoát. Ấn Độ giáo coi việc thực hiện hiệp nhất với Brahman (Đại Ngã) làm mục đích của đời sống tâm linh và là cứu cánh của con người. V.v…

Nhờ đối thoại và trao đổi với các tôn giáo khác, ta sẽ hiểu về Thực Tại Tuyệt Đối duy nhất vốn đa diện ấy một cách đầy đủ hơn, nhiều mặt hơn, dưới nhiều góc độ hơn, và có thể có nhiều kinh nghiệm phong phú về Thực Tại ấy hơn. Tương tự như các nhà chuyên môn, nhà nào cũng chỉ thấy được một vài khía cạnh của vấn đề thôi, nhưng nhờ trao đổi và đối thoại với những nhà chuyên môn khác, họ mới hiểu vấn đề một cách thấu đáo, toàn diện hơn. Như chúng ta vẫn có dịp kinh nghiệm, quan điểm của các nhà chuyên môn trong các lãnh vực khác nhau thường rất khác biệt nhau, thậm chí mâu thuẫn có vẻ như không thể dung hòa nhau được. Thật khó mà tin tưởng được rằng các nhà xã hội học, tâm lý học, y học, thống kê học, nông học, triết gia, thần học gia… thuộc đủ mọi ngành lại có thể quan niệm giống nhau về một vấn đề nào đó ngay từ đầu, trước khi ngồi lại với nhau để trao đổi và bổ túc nhau để cùng thống nhất quan điểm.

Nếu chỉ biết «qua loa» quan điểm của nhau, chắc chắn họ không thể đồng ý với nhau được, vì có những quan niệm của người khác ngược hẳn lại quan niệm của mình. Nhưng khi trao đổi với nhau một cách chân thành với mục đích tìm hiểu nhau, họ mới thấy được sự hợp lý của nhau, mới nhận ra rằng có rất nhiều cách nhìn khác nhau về cùng một vấn đề dù rất nhỏ và giới hạn ấy, và tất cả những cách nhìn đó đều đúng, nhưng mỗi cách chỉ đúng trong một vài khía cạnh nào đó của vấn đề mà thôi.

Một vấn đề nhỏ hẹp và giới hạn mà người ta còn có nhiều cách nhìn khác nhau như thế, và cách nào cũng đều phiến diện như thế, lẽ nào một thực tại vô cùng to lớn, vô cùng phong phú và đa diện, vượt khỏi khả năng kinh nghiệm của con người, lại chỉ có duy nhất một cách nhìn, một cách quan niệm là đúng mà thôi? Và lẽ nào quan niệm đó lại bao trùm được hết một thực tại vô cùng to lớn như thế? Một mảnh vải nhỏ có thể che kín được cả đại dương chăng? Muốn che kín được đại dương, phải có hàng tỷ tỷ mảnh vải như thế!

Như vậy, muốn hiểu biết về Thực Tại Tuyệt Đối vô cùng phong phú kia, nếu chỉ biết có quan điểm của tôn giáo mình và tự mãn về quan điểm ấy thì có hợp lý không? Cần phải tìm hiểu những quan điểm khác nữa, không phải chỉ quan điểm của các tôn giáo mà thôi, mà phải tìm hiểu cả những quan điểm phi tôn giáo nữa. Kết quả của việc đối thoại chân thành ấy là các tín hữu trong bất kỳ tôn giáo nào cũng cảm thấy quan niệm của mình về Chân Lý cần được bổ túc bởi các tôn giáo khác. Sự cần lẫn nhau ấy sẽ nẩy sinh lòng yêu thương nhau, sự đoàn kết và hợp tác với nhau để xây dựng những thiện ích chung. Một viễn cảnh tốt đẹp như thế chẳng phải là ý muốn của Thiên Chúa, Đấng muốn cho mọi người hiệp nhất với nhau sao?

Không phải mọi tôn giáo đều tôn thờ ngẫu tượng

Trước Công Đồng Vatican II, Kitô giáo không chấp nhận các tôn giáo khác vì cho rằng các tôn giáo ấy tôn thờ ngẫu tượng, nghĩa là thờ một vị thần minh nào đó khác với Thiên Chúa, Đấng tuyệt đối và duy nhất. Thời ấy, trong sách giáo lý và trong một số kinh nguyện Công Giáo ở nước ta, có thành ngữ «thờ Bụt, thần, ma, quỉ» để áp dụng cho hầu hết các tôn giáo không phải là Kitô giáo. Trong thành ngữ đó, «Bụt» - phiên âm cổ trong tiếng Việt của từ «Buddha», tức Đức Phật - đã bị người Kitô hữu xếp cùng một «catêgôri» với các tà thần và ma quỉ.

Quan niệm như thế chứng tỏ thời đó chúng ta không hề biết chính xác về các tôn giáo lớn của thế giới, và đã tiên thiên đồng hóa mọi tôn giáo với một số tôn giáo nhỏ ở vùng Palestine mà Kinh Thánh Cựu Ước kết án là tôn thờ ngẫu tượng. Coi tất cả các tôn giáo – dù lớn hay nhỏ – hễ khác với mình thì đều là «cá mè một lứa» với những tôn giáo thấp kém mà mình đã biết, thì đó không phải là việc làm minh triết. Việc tìm hiểu các tôn giáo lớn tại Á châu cho thấy: đối tượng của các tôn giáo ấy không phải là những ngẫu tượng mà Do Thái giáo và Kitô giáo ghê tởm, nhưng xét cho cùng, đối tượng ấy cũng chính là đối tượng của Kitô giáo, nhưng được nhìn ở góc độ khác, được diễn tả cách khác, và được gọi bằng một tên khác.

Chẳng hạn trong Phật giáo, đối tượng tối hậu không phải là Đức Phật, lại càng không phải là tượng Phật, mà là Chân Như Phật Tính, là Bản Lai Diện Mục, tức Thực Tại tuyệt đối và duy nhất vẫn có trong bất kỳ vật nào, bất biến, vô thủy vô chung, làm nền tảng hiện hữu cho tất cả mọi vật đã, đang và sẽ có trong vũ trụ… Đức Phật chỉ là người giác ngộ được thực tại tuyệt đối ấy – tức Chân Như Phật Tính – nơi mình và trong vũ trụ mà thôi. Người Phật tử chân chính không bao giờ lại thờ phượng Đức Phật cả. Việc tụng niệm và cầu khẩn Phật ADiĐà trong Tịnh Độ Tông chỉ là một trong những cách giáo hóa của Phật giáo Đại thừa dành cho đại chúng, vốn còn ở trình độ thấp, chưa hiểu được giáo lý vi diệu thâm sâu của Phật. Giáo pháp này là tạm thời nhằm nâng cấp trình độ người Phật tử lên mức cao hơn ([3]).

Hay trong Khổng giáo, Đức Khổng chỉ là «Vạn Thế Sư Biểu» (Thầy dạy của mọi thế hệ), không bao giờ được quan niệm là một vị thần minh được tôn thờ như Kitô giáo thờ Thiên Chúa hay Đức Kitô cả. Mà đối tượng phải tôn trọng, phải tuân theo là «Mệnh Trời», «Thiên», «Trời Đất»… hoàn toàn không có ý nghĩa vật chất, mà là một nguyên lý siêu hình, tối hậu, nền tảng của vũ trụ…

Những tên và quan niệm khác nhau ấy chỉ qui về một đối tượng duy nhất

Chúng ta nhận ra tất cả những đối tượng tối hậu có vẻ khác nhau ấy chỉ là một đối tượng duy nhất, nhờ những đặc tính căn bản chung mà mọi tôn giáo đều gán cho đối tượng tối hậu của mình. Những đặc tính căn bản ấy là: duy nhất, tuyệt đối, bất biến, vô cùng, siêu việt, siêu nghiệm, không thể nghĩ bàn, là nền tảng duy nhất cho mọi thực tại tương đối, biến đổi và hữu hạn.

Những đặc tính đó chỉ duy nhất có một thực tại có thể có mà thôi. Đó là Hữu Thể mà Kitô giáo gọi là Thiên Chúa, nhưng trong các tôn giáo khác, Hữu Thể đó lại mang những tên khác, và được quan niệm cách khác. Sự khác biệt đó là tất yếu, dĩ nhiên. Nếu không có sự khác biệt ấy thì đó mới chính điều là khó hiểu.

Chính vì sự khác biệt trong tên và trong quan niệm về Hữu Thể ấy nơi các tôn giáo, mà người ta không nhận ra những tên và những quan niệm khác nhau ấy đều chỉ về một Thực Tại duy nhất. Cũng như một người dùng nhiều tên khác nhau, mang những thể dạng hay làm những nghề nghiệp khác nhau ở những thời điểm và địa điểm khác nhau. Những ai chỉ biết người ấy qua một tên, một bộ mặt và một nghề nghiệp của người ấy, thì khi họp nhau lại để nói về người ấy, họ sẽ rất khó lòng nhận ra tất cả những tên cũng như những ý niệm gắn liền với tên ấy đều chỉ quy về một người duy nhất. Chỉ có những ai đã gặp người ấy trong nhiều trường hợp hay hoàn cảnh khác nhau, mới biết những tên, những bộ mặt và nghề nghiệp khác nhau ấy đều chỉ là một người duy nhất.

Cũng tương tự như trường hợp sau: có người mà tôi gọi bằng cha và bị tôi coi là nghiêm khắc, có người mà mẹ tôi gọi là chồng và được bà coi là người rất hào hiệp phong nhã, có người mà chú tôi gọi là anh và được ông coi là rất tốt bụng. Ba người ấy có thể là ba người khác nhau vì có ba tên gọi khác nhau, và ba đặc tính đi đôi với ba tên ấy cũng khác nhau. Nhưng nếu tôi chỉ có một người cha, mẹ tôi chỉ có một người chồng, và chú tôi chỉ có một người anh, thì ắt hẳn ba người ấy chỉ là một, cho dù tên gọi và quan niệm về người ấy nơi mẹ tôi, chú tôi và tôi có khác nhau. Cũng vậy, không thể vì tên gọi và quan niệm về Thực Tại Tối Hậu của mỗi tôn giáo mỗi khác, mà Thực Tại ấy không thể là một được!

Một minh họa khác: Sau thế chiến thứ hai, các tội phạm chiến tranh - những nhân vật cao cấp trong Đức Quốc Xã, đồng phạm với Hitler - bị truy nã gắt gao để đưa ra xử tại toà án quốc tế. Có một tội phạm đã nhiều lần đổi tên, đổi lý lịch, đổi diện mạo bằng những phương pháp phẫu thuật tân kỳ, đổi cả giọng nói, đương nhiên cũng thay đổi nghề nghiệp, chỗ ở, thậm chí phải qua nước khác để sống. Hắn phải bỏ vợ con, gia đình, cha mẹ, bạn bè, vì đó là những đầu mối khiến hắn có thể bị phát hiện, và hắn phải lập nên những gia đình mới, tương quan với những bạn bè mới. Mọi sự đều thay đổi nhiều đợt để không ai nhận ra hắn là một tên tội phạm bị truy nã gắt gao. Tuy nhiên, vẫn có những thứ không sao thay đổi được như vân tay, chiều cao, loại máu, một số thói quen… Chính nhờ những yếu tố không thay đổi này, mà các thám tử quốc tế đã nhận ra: những tên khác nhau, những bộ mặt khác nhau, những lý lịch khác nhau kia chỉ là một người duy nhất. Và tên tội phạm ấy đã bị khám phá và đền tội.

Những người thông thường, bình dân, khi thấy tên khác, bộ mặt khác, lý lịch khác, chỗ ở khác, nghề nghiệp khác… ắt phải nghĩ đó là người khác, không còn nghi ngờ gì. Nhưng các thám tử không được nghĩ như thế! Nếu ngay từ đầu họ đã nghĩ như người bình thường thì không bao giờ họ có thể phát hiện ra những trường hợp thay đổi kỹ lưỡng như vậy. Vấn đề ở đây là: căn cứ vào đâu để có thể xác nhận chắc chắn rằng những khác biệt ấy chỉ qui về một người duy nhất.

Hữu Thể Tối Thượng thì vô cùng phong phú và đa diện, đồng thời không thể quan niệm và diễn tả được. Chân tính của Hữu Thể ấy thường được xác định cách khác nhau trong mỗi tôn giáo, tùy theo rất nhiều điều kiện hạn hẹp, cá biệt về văn hóa, xã hội, sinh thái, triết lý… của từng tôn giáo. Theo lý luận thông thường, những quan niệm và những cách diễn tả khác nhau ấy phải tương ứng với những đối tượng khác nhau. Do đó, nếu không có đầu óc cởi mở, rộng rãi để nhìn ra những đặc tính chung, căn bản và không thay đổi trong các cách xác định chân tính của Hữu Thể Tối Thượng ấy, mà cứ cố chấp vào những chi tiết khác biệt, thì làm sao nhận ra được tất cả những cách xác định khác nhau kia đều chỉ quy về một đối tượng duy nhất?

Nguyễn Chính Kết



([1])    Những từ «đơn diện, tĩnh, nhị nguyên» sẽ được giải thích rõ hơn trong phần III, trang [???] 150-164.

([2])    Xem phần III, trang [???] 137-196.

([3])    Nhiều tín đồ Phật giáo quan niệm Tịnh Độ Tông như là một sự thoái hóa về mặt trí tuệ, mà Phật giáo bất đắc dĩ phải chấp nhận để phù hợp với trình độ của đại chúng, theo như chủ trương «tùy duyên hóa độ» của mình. Nhưng linh mục Henri de Lubac, trong cuốn Amida (Paris, Seuil,1955), thì lại cho rằng Tịnh Độ Tông là một bước tiến hóa của Phật giáo để trở nên giống Kitô giáo hơn trong việc cầu tha lực – một Đấng, hay một sức mạnh thần linh ngoài mình – để được giải thoát. Theo linh mục, đó là một bước chuyển biến phải có – mang tính «quá độ» – để Phật giáo tiến lên quan niệm về một Thiên Chúa có ngôi vị và cứu độ như Kitô giáo.

No comments:

Post a Comment